và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985. 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội. 12. 1.1. Tình hình đất nước sau chiến tranh.12. 1.2. Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng. chủ nghĩa xã hội. 13. 2. Tình hình phát triển của văn xuôi. 15. 3. Cảm hứng triết luận về người phụ nữ và số phận của họ cũng được truyện ngắn sau 1975 chú ý khai thác. Võ Thị Hảo qua chùm truyện Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao, Hành trang người đàn bà Âu Lạc tỏ ra đặc biệt hứng thú với đề tài này. Dựa vào cảnh ngộ những người trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những nét đặc sắc về nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. - Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn Thông tin tài liệu. Con người trong truyện ngắn sau 1975:Chỉ có sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người mới tạo ra sự đổi mới toàn diện của văn xuôi. Quan niệm nghệ thuật về con người được xem như là cách tân quan trọng nhất của văn học nói chung ở mọi thời Truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: Mỗi người trong cõi đời,nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn giản,sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Thì sau năm 1975 cùng với công CfW76. Văn học đổi mới sau 1975 và những người mở đường tinh anh. Sáng tác văn học là một quá trình của sự tìm tòi sáng tạo của mỗi nhà văn. Bên cạnh đó sự kế thừa, phát huy và phát triển cũng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự hoàn thiện cho mỗi trào lưu, khuynh hướng văn học. Văn học sau 1975, với sự đổi mới về mọi mặt từ đời sống kinh tế văn hóa xã hội cho đến nghệ thuật, đã chắp cánh cho văn học bay cao, bay xa, bay đến miền đất của sáng tạo, của tự do, vứt bỏ mọi trói buộc, xiềng xích. Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam có một bước chuyển mình lớn, với sự xuất hiện của nhiều tác phẩm có giá trị, nhiều tác giả ưu tú, nhiều tư tưởng mới, tuyên ngôn mới trong sáng tác đã ra đời. Từ đó nhiều khuynh hướng văn học ra đời với những nét độc đáo riêng. Nói đến các khuynh hướng văn học sau năm 1975 phải kể đến ba khuynh hướng cơ bản sau khuynh hướng tiếp tục mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân; hay hướng vào đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân; và khuynh hướng đi sâu vào những vùng mờ của tâm linh, vô thức và đưa thơ theo hướng tượng trưng siêu thực. 1. Những điểm mới của truyện ngắn sau năm 1975 so với giai đoạn trước. Quan niệm nghệ thuật về con người Sau 1975 con người trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp của đời sống thường nhật. Con người được miêu tả trong văn học không còn đại diện cho cái chung nữa mà được nhìn nhận ở nhiều bình diện, trong nhiều mối quan hệ, đa dạng, phong phú hơn. Đổi mới về phương diện nghệ thuật + Đổi mới về kết cấu. Hầu hết các tác phẩm văn xuôi ra đời ở thời kì đổi mới đều được tổ chức theo kết cấu mở kết cấu bỏ ngỏ, để người đọc tự rút ra kết luận cho riêng mình. + Đổi mới về điểm nhìn trần thuật Các hình thức trần thuật Trần thuật từ ngôi thứ ba, trần thuật từ ngôi thứ nhất; cách tổ chức điểm nhìn trần thuật Sử dụng một điểm nhìn trần thuật hoặc phối hợp các điểm nhìn trần thuật. + Giọng điệu trần thuật Không chỉ kể bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn chuyện mà các tác giả còn hoá thân thành nhiều giọng điệu phong phú khác nhau Có đối thoại, có độc thoại, có ngôn ngữ trực tiếp, có ngôn ngữ nửa trực tiếp. + Đối tượng phản ánh Cuộc sống của con người ngay sau chiến tranh Ở Một người Hà Nội, đó là những ngày tháng tiếp quản thủ đô sau chiến thắng Điện Biên Phủ; ở Chiếc thuyền ngoài xa, đó là sau năm 1975, đất nước thống nhất và trước công cuộc đổi mới đất nước Mùa lá rụng trong vườn- Ma Văn Kháng. Trên nền thực tại ấy, vấn đề được đặt ra không còn là số phận của dân tộc, của cộng đồng trong thử thách máu lửa, trong đấu tranh sinh tử, mất còn, mà là thân phận con người trong cuộc sống đời thường. + Không gian nghệ thuật được miêu tả Chủ yếu là không gian đời tư, ở đó nhân vật bộc lộ rõ nét nhất bản chất, tính cách của mình một xóm chài ven biển miền Trung, nơi mỗi gia đình cư ngụ trên một chiếc thuyền lưới vó; một ngôi nhà cổ kính của Hà Nội;… +Nhân vật chính là những con người của lam lũ đời thường không còn là “con người chính trị”, “con người mới” với bao nhiêu phẩm chất lí tưởng từng được nói đến nhiều trong văn học trước 1975, như Nghệ sĩ Phùng không chỉ toàn tâm toàn ý với nghệ thuật mà còn khôn nguôi trăn trở trước muôn lẽ đời thường; Người đàn bà hàng chài với đói khổ cùng cực, vất vả, lam lũ, thiếu đói triền miên. Đề tài Truyện sau năm 1975 ngày càng mở rộng, hướng tới cảm hứng thế sự, đời tư thay cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học trước 1975. 2. Điểm mới của thơ trữ tình sau năm 1975 so với giai đoạn trước. Sau 1975, thơ trữ tình có những thay đổi phức tạp và đa dạng. Thơ trữ tình giai đoạn này vận động theo nhiều xu hướng khác nhau, bên cạnh những khuynh hướng như tiếp tục mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân; hay hướng vào đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân, thì khuynh hướng đi sâu vào những vùng mờ của tâm linh, vô thức và đưa thơ theo hướng tượng trưng siêu thực được xem là một khuynh hướng đặc biệt. – Sự mở rộng về đề tài Năm 1975 đánh dấu sự chuyển biến lớn trong lịch sử của dân tộc đất nước được thông nhất, đi vào thời kì đổi mới và hội nhập. Sự thay đổi về lịch sử kéo theo sự chuyển mình mạnh mẽ trong văn học. Giai đoạn này thơ không có những lôi cuốn, hấp dẫn như giai đoạn kháng chiến nhưng lại có sự mở rộng về đề tài tạo nên một diện mạo hoàn toàn mới + Thơ tình yêu phát triển mạnh và phong phú về giọng điệu + Khuynh hướng nhìn lại chiến tranh + Xu hướng tìm về cội nguồn – “thơ đồng nội” + Hiện tượng thơ tượng trưng, siêu thực. Những chuyển đổi về tư duy nghệ thuật trong thơ + Bên cạnh cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối như một quán tính nghệ thuật thì trong những năm cuối thập kỉ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, “thơ đời thường” xuất hiện nhiều. + Các hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một hiện thực kỳ vĩ và cảm hứng sử thi không còn xuất hiện như là hiện tượng nổi bật của thơ ca giai đoạn này. Theo đó, thể tài thế sự, đời tư trở nên nổi bật ,cái tôi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng xé, hướng nội. Ý thức “cởi trói” để xác lập một quan niệm mới về nghệ thuật Đó là nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn giấu”, dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá trị mới. Đây là lý do khiến các nhà thơ sau 1975 chú ý nhiều hơn đến tính đa nghĩa của ngôn ngữ thơ ca, tạo ra tính nhòe mờ trong ngôn ngữ và biểu tượng. Xu hướng này muốn gia tăng chất ảo trong thơ, buộc người đọc phải giải mã các sinh thể nghệ thuật qua nhiều chiều liên tưởng văn hóa khác nhau. Đàn ghi ta của Lorca rất tiêu biểu cho nỗ lực cách tân thơ Việt Nam của Thanh Thảo, bài thơ có phần khó hiểu vì nó nhuốm màu sắc tượng trưng và siêu thực mà ông chịu ảnh hưởng ít nhiều ở chính nhà thơ hiện đại Tây Ban Nha Gar-xi-a Lorca mà ông hết lòng ngưỡng mộ. Cho nên khi dạy bài thơ này, trước hết giáo viên phải cung cấp và giảng giải cho học sinh một số kiến thức cơ bản về thơ tượng trưng, siêu thực – Cái Tôi trữ tình Trước hết, trong thơ hiện đại, dòng tượng trưng, siêu thực tạo nên sự khác biệt với thơ cổ điển và lãng mạn ở việc thể hiện vai trò “cái tôi”. Nếu trong thơ cổ điển, cái tôi bị phủ định, trong thơ lãng mạn, cái tôi lại được đưa lên vị trí độc tôn thì đối với các nhà thơ tượng trưng và siêu thực, cái tôi đã mất vị trí độc tôn, bị lu mờ, thậm chí trở thành cái tôi đa ngã. – Đặc sắc nghệ thuật Đề cao và chú trọng khai thác cái ngẫu hứng, cái bất ngờ trong thế giới vô thức; đề cao vai trò của cái hỗn độn, phi logic; sáp lại những hình ảnh vốn cách xa nhau trong thực tại để tạo nên trườ liên tưởng và tưởng tượ phong phú;… ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC Xà HỘI VÀ NHÂN VĂN ******** PHẠM VĂN DŨNG ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM Mà SỐ 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học PGS -TS PHẠM THÀNH HƯNG Hà Nội - 2010 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 do chọn đề tài 1 sử vấn đề 3 3. Mục đích nghiên cứu 9 4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu 10 5. Cấu trúc luận văn 11 PHẦN NỘI DUNG 12 Chương I 12 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn 12 văn học mới Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền 12 tuyến Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới 14 chung của văn học và thời đại Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm 14 1975 Khát vọng đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu 16 Sáng tác Nguyễn Minh Châu thời kỳ chống Mĩ 18 Những đột phá quả cảm trên con đường đổi mới tư duy nghệ 18 thuật Những quan niệm mới về con người 18 Từ ý thức về con người cộng đồng tới ý thức về con người cá nhân 22 thế sự Con người chủ thể lịch sử hay nạn nhân của lịch sử cùng với 25 những khát vọng sống và mưu cầu hạnh phúc Chương II 34 NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 34 kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 34 Kết cấu sự kiện 34 Kết cấu tâm lý 35 Truyện không có cốt truyện 37 Phối hợp nhiều kiểu kết cấu cốt truyện 39 Tổ chức sự kiện 41 chức một sự kiện duy nhất 41 Tổ chức mối tương quan giữa các sự kiện 42 Cách sắp xếp các thành phần cốt truyện 49 Nghệ thuật xây dựng tình huống 53 Tình huống nghịch lý 54 Tình huống tâm lý 54 Tình huống ngẫu nhiên 57 Quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh 58 Hệ thống nhân vật xây dựng trong quan hệ đối chiếu tương 59 phản Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ bổ sung 65 Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với nghịch 69 lý Định nghĩa về nghịch lí 69 thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với những 70 nghịch lí trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 Hệ thống nhân vật xây dựng trong mối quan hệ với biểu tượng 83 Số phận nhân vật phản chiếu qua biểu tượng 85 Nội tâm và góc khuất tâm linh nhân vật biểu đạt qua biểu tượng 87 Chương III 91 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KHÔNG GIAN - THỜI GIAN VÀ LỰA CHỌN GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT Tổ chức không gian nghệ thuật 91 Tổ chức không gian trong sự đối lập 92 Tổ chức không gian tư tưởng, không gian tâm lý, không gian 97 văn hoá thẫm mỹ Tổ chức không gian đời thường mang ý nghĩa nhân sinh 101 Tổ chức không gian với nhiều hình thức biểu tượng 102 Tổ chức thời gian nghệ thuật 105 Tổ chức theo trình tự thời gian 106 gian theo trật tự tuyến tính 106 Đảo trật tự thời gian 108 Tổ chức các lớp thời gian 110 Tổ chức thời gian đồng hiện 110 chức các mối liên kết thời gian 112 Tổ chức thời gian ảo, thời gian viễn tưởng 115 Mở rộng thời gian nghệ thuật 117 điệu trần thuật 118 hình thức trần thuật 118 Trần thuật từ ngôi thứ ba 118 thuật từ ngôi thứ nhất 120 Cách tổ chức điểm nhìn trần thuật 123 Sử dụng một điểm nhìn trần thuật 123 Phối hợp các điểm nhìn 126 Tổ chức giọng điệu trần thuật 131 PHẦN KẾT LUẬN 138 thật tổ chức hình tuợng có nhiều đặc sắc, cách tân 138 2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và những cách tân so với truyền 139 thống 3. Nghệ thuật trần thuật có bước vận động mới với những cách tân cụ thể 140 MỞ ĐẦU do chọn đề tài Đã hai mươi mốt năm nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta, vĩnh biệt cuộc đời mà ông nặng lòng yêu quý. Nhưng một đời người - một đời văn khắc khoải “ Một niềm tin pha lẫn lo âu ” đối với con người của ông chắc sẽ còn để lại những dấu ấn khó phai nhạt trong lòng những người yêu văn chương. Sáng tác của ông đã được ghi nhận như một dấu son chói sáng trên con đường đổi mới và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975 Nguyễn Minh Châu được biết đến và yêu mến qua những trang viết về một hiện thực kháng chiến hào hùng, mang đậm chất sử thi. Tác phẩm của ông được xem như những bước tượng đài ngôn từ tráng lệ về sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong các tác phẩm của ông, ý thức cộng đồng bao trùm tất cả, tình yêu Tổ quốc là hệ quy chiếu duy nhất và cao cả để định giá mọi quan hệ từ gia đình cho đến xã hội, mọi tình cảm từ riêng chung của con người. Trong hoàn cảnh chiến tranh lúc này rất cần sự đồng lòng, đồng chí cao độ. Điều đó như một tất yếu lịch sử. Hoà mình vào dòng chảy mãnh liệt của lịch sử thời đại chống Mĩ, những trang viết của Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành sứ mệnh văn chương của mình. Đất nước thống nhất giang sơn thu về một mối, kết thúc cuộc đấu tranh giành quyền sống của dân tộc chúng ta bước vào một cuộc đấu tranh cho quyền sống của mỗi con người. Trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa đời thường tưởng như giản đơn ấy, bao vấn đề nhân sinh đã đặt ra cho con người nói chung, mỗi nhà văn như Nguyễn Minh Châu nói riêng những trăn trở và buộc họ phải tự đổi mới mình cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Văn học sử thi dần dần bộc lộ những sơ lược, công thức, khó đáp ứng được với cuộc sống mới với bao phức tạp, bức xúc bôn bề. Với sự trăn trở của một ngòi bút có lương tâm và trách nhiệm Nguyễn Minh Châu đã âm thầm lặng lẽ tìm hướng đi, tự đổi mới chính mình, với những truyện ngắn mang tính luận đề, và sau 1 đó là một loạt truyện ngắn đậm chất đời tư - thế sự, khám phá con người và hiện thực ở nhiều chiều đa dạng phong phú, với những đổi mới và cách tân nghệ thuật. Không nằm ngoài những khai phá khác, những đổi mới ấy không lập tức được chấp nhận và ghi nhận, đôi lúc trở thành những tranh luận mang tính diễn đàn. Hàng loạt những bài phê bình xuất hiện, khen có, chê có về truyện ngắn của ông, thậm chí báo Văn nghệ đã phải tổ chức cả một cuộc hội thảo để lật các mặt của vấn đề nhằm tìm ra chân lí. Qua nghiên cứu, đánh giá ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau của các nhà nghiên cứu, phê bình, bạn đọc… đặc biệt qua sức sống mãnh liệt của những truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong thời gian cho đến nay ta vẫn thấy rõ giá trị và vị trí mở đường " tinh anh và tài năng " Nguyên Ngọc đã được khẳng định chắc chắn. Đó là những thành tựu không chỉ của nhà văn mà còn là của cả nền văn học hiện đại Việt Nam trong chặng đường đổi mới văn học. Đánh giá về các tác phẩm của mình Nguyễn Minh Châu đã từng nhận " Mình viết văn suốt đời tràng giang đại hải, có khi chỉ còn lại vài cái truyện ngắn ". Với hi vọng nhỏ nhoi muốn góp một phần vào sự hoàn thiện trong nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và sự nghiệp văn học của ông nói chung, tôi quyết định chọn đề tài " Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhìn từ góc độ thi pháp " để nghiên cứu. Đồng thời qua đó, tôi mong muốn được góp phần tìm hiểu sự vận động của quá trình văn học trong giai đoạn thời kì đổi mới, tìm hiểu thêm một số vấn đề về nghệ thuật truyện ngắn nhìn từ góc độ thi pháp học, một vấn đề đang được xem là trung tâm của tự sự học hiện đại. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng luận văn của mình có ý nghĩa giúp mình mở rộng kiến văn, từ đó sẽ giảng dạy có hiệu quả hơn, đáp ứng được một cách tốt hơn những yêu cầu giáo dục trong thời kỳ mới. sử vấn đề 2 Nguyễn Minh Châu là một nhà văn đã để lại nhiều dấu ấn đặc sắc trong lịch sử văn học nước nhà. Cho đến nay đã có hàng trăm bài viết , hàng chục công trình nghiên cứu lớn nhỏ đề cập đến nhiều khía cạnh về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. Theo thư mục tài liệu nghiên cứu tác giả, tác phẩm Nguyễn Minh Châu do TS Nguyễn Trọng Hoàng và Nguyễn Đức Khuông biên soạn năm 2002, số lượng bài viết về Nguyễn Minh Châu đã lên đến con số 150. Đó là chưa kể đến các luận án Tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về Nguyễn Minh Châu của các nghiên cứu sinh, học viên cao học qua nhiều thế hệ. Các bài viết ấy đã được tập hợp , tuyển chọn và giới thiệu trong các cuốn Kỷ yếu hội thảo 5 năm ngay mất Nguyễn Minh châu - Hội văn nghệ Nghệ An ,1995; Nguyễn Minh Châu - con người và tác phẩm [ 3 ]; Nguyễn Minh Châu - về tác giả và tác phẩm [ 21 ]. Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn nhất là những truyện viết sau năm 1975 - là mảng sáng tác thu hút được sự chú ý đặc biệt và gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu phê bình và đông đảo công chúng, mà một trong những lý do là bởi sự cách tân nghệ thuật của nó. Cuộc " Trao đổi về những truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu " [42 ] đã chứng tỏ sức thu hút rộng rãi ấy. Tuy gây ra nhiều ý kiến trái chiều , song qua thời gian những tìm tòi mở đường của Nguyễn Minh Châu nhanh chóng được khẳng định. Truyện ngắn của ông dần dà được mặc nhiên thừa nhận , ngày càng có vị trí vững vàng trong công chúng văn học, trở thành đối tượng cho những sự phân tích kỹ lưỡng , thấu đáo và khoa học. Cùng với sự ra đời của các tập truyện "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê"... đặc biệt là tập truyện cuối " Cỏ Lau" là sự xuất hiện của hàng loạt bài viết phân tích thành công cũng như hạn chế của Nguyễn Minh Châu trong các tập truyện đó mà chủ yếu là đánh giá cao những thành tựu thể hiện sự vận động đổi mới trong tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người , phương thức thể hiện ... Có thể kể đến một số bài viết nổi bật của Lại Nguyên Ân [ 3,201-208 ], Ngô Thảo [ 51 ], Huỳnh Như Phương [ 3,164 -170 ],Trần Đình 3 Sử [ 46 ], Hoàng Ngọc Hiến [ 17 ], Đỗ Đức Hiểu [ 18 ], Lã Nguyên Tùng [ 37 ], Nguyễn Văn Hạnh [ 14 ], Chu Văn Sơn [45], Lê Văn Tùng [ 57 ]... Về nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy chưa có một công trình nào nghiên cứu xem xét một cách toàn diện , trực tiếp đặc điểm truyện ngắn nhìn từ góc độ thi pháp, song về các yếu tố liên quan đến nghệ thuật truyện ngắn hoặc là những phương diện của nghệ thuật truyện ngắn như nhân vật, cốt truyện , tình huống, nghệ thuật trần thuật ... thì đã có một số bài viết và công trình đề cập đến. Xem xét nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Ngô Thảo có cùng quan điểm với Nguyễn Thị Minh Thái sau này , cho rằng nhân vật gây được chú ý hơn cả trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là nhân vật nữ, những người phụ nữ đi qua chiến tranh. Tác giả đánh giá " Nguyễn Minh Châu đã bộc lộ thế mạnh của một cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lý khá phức tạp của một con người không đơn giản" [ 51 ]. Phạm Vĩnh Cư lại tìm thấy trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những nhân vật tiểu thuyết đích thực Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát Một con người nhiều chiều, một tính cách vừa mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá biệt vừa tiêu biểu, vừa là quá khứ của lịch sử tối tămvừa toả ánh sáng của nhân tính vĩnh hằng của những giá trị đạo đức muôn đời [ 11 ] Nguyễn Tri Nguyên nêu lên một kiểu nhân vật mới xuất hiện trong nhiều sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu Kiểu nhân vật hướng nội [ 38]. Trong một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan đã phân loại nhân vật trong sáng tác Nguyễn Minh Châu thành hai loại nhân vật đặc trưng nhất thể hiện được phong cách nghệ thuật của nhà văn nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách - số phận. Tác giả đã nhận xét " Nếu trước những năm 80 , Nguyễn Minh Châu chủ yếu chỉ xây dựng dạng nhân vật loại hình thì càng về sau , ngòi bút của ông đã vươn tới 4 sự khắc hoạ nên các dạng nhân vật tư tưởng , nhân vật tính cách - những nhân vật có số phận riêng so với cộng đồng ". Đây là những nhân vật " được xây dựng theo một quan niệm nghệ thuật nhằm tạo ra khả năng thể hiện đời sống với chiều sâu nhất định, vừa mang thông điệp của tác giả , lại vừa tồn tại một cách khách quan như những "Con - người - này"; và hệ thống những nhân vật đó "đa dạng , đông đảo " trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Tôn Phương Lan cũng rút ra những thủ pháp trong xây dựng nhân vật của nhà văn miêu tả tâm lý, sử dụng đọc thoại nội tâm cùng yếu tố ngoại hình và tên gọi. Theo tác giả, quá trình tái hiện " Con người trong con người " đó là quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và " một trong những phương diện đặc sắc thể hiện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu chính là nhân vật " [ 30 ] Cũng nhận diện về các kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu, Trịnh Thu Tuyết phân chia thành các loại nhân vật nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách , nhân vật thế sự, nhân vật số phận [ 58]. Đồng thời tác giả chỉ ra qúa trình vận động và đổi mới thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu từ các nhân vật lí tưởng đến những nhân vật đa chức năng phản ánh cuộc sống đời tư, thế sự như đã kể trên. Trịnh Thu Tuyết cũng đã khẳng định những đóng góp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong xây dựng nhân vật thể hiện qua các biện pháp dùng độc thoại nội tâm, chi tiết miêu tả tâm lý xác thực, miêu tả ngoại hình sinh động [ 59 ]... Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu đi vào tìm hiểu các kiểu loại nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, song chưa xem xét nghệ thuật tổ chức nhân vật trong các mối quan hệ cụ thể để kết cấu nên hình tượng nhân vật trong các tác phẩm của ông nói chung và trong truyện ngắn nói riêng . Về cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu , Trịnh Thu Tuyết đã nhận diện và phân tích khá rõ ba kiểu cốt truyện trong truyện ngắn sau 1975 của nhà văn Cốt truyện luận đề, cốt truyện sinh hoạt - thế sự, cốt truyện 5 đời tư. Qua đó tác giả đã chỉ ra sự vận động đổi mới trong phương diện kết cấu tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là sự vận động từ những cốt truyện có hành động bên ngoài chiếm ưu thế đến những cốt truyện chủ yếu dựa vào sự vận đông tâm lý, cảm xúc bên trong. Từ đó Trịnh Thu Tuyết đã đi đến kết luận " Các sáng tác sau năm 1975 cuả Nguyễn Minh Châu đều thuộc kiểu cốt truyện không biến cố, không có những xung đột khép kín dựa vào diễn biến sự kiện . Cốt truyện được nới lỏng, chủ yếu dựa trên những xung đột tâm lý chồng chéo không mở đầu, không có cao trào, cũng không kết thúc , tựa dòng chảy " Tự nhiên, nhi nhiên " của cuộc sống vốn luôn tồn tại cùng những mâu thuẫn, những xung đột vĩnh cửu"[59,140]. Trịnh Thu Tuyết cũng khẳng định tuy đó không phải là kiểu cốt truyện mới mẻ trong lịch sử văn học nhân loại, song những đóng góp của Nguyến Minh Châu trong đổi mới cốt truyện mở rộng khả năng phản ánh hiện thực, làm giảm bớt tính loại biệt ước lệ và sự giản cách của nội dung nghệ thuật với hiện thực đời sống đã góp phần đưa văn học về gần hơn với cuộc đời, con người [ 59]. Bên cạnh những công trình nghiên cứu của Trịnh Thu tuyết, còn có một số ý kiến rãi rác đề cập đến cốt truyện trong các bài viết về Nguyễn Minh Châu của các nhà nghiên cứu phê bình khác. Chẳng hạn như Ngọc Trai có nhận xét khái quát " Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là loại truyện luận đề những luận đề về đạo đức nhân văn, về tâm lý xã hội " [ 55 ]. Công trình nghiên cứu của Trịnh Thu Tuyết và một số ý kiến về cốt truyện nói trên chủ yếu đã nhận diện, phân chia các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu dựa trên những đặc trưng nội dung , đề tài của nó, song chưa đi vào cách tổ chức sự kiện , các thành phần cốt truyện theo quan điểm nghệ thuật kết cấu. Cùng với nhân vật, cốt truyện, tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng là một phương diện nghệ thuật được nhiều nhà nghiên cứu phê bình quan tâm và phân tích, đánh giá. Bùi Việt Thắng, trên quan điểm loại hình, đã nêu lên ba dạng tình huống cơ bản trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tình huống - tương 6 phản; tình huống - thắt nút; tình huống - luận đề, từ đó rút ra bài học nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mối quan hệ đời sống - tình huống truyện là mối quan hệ biện chứng [58]. Trịnh Thu Tuyết đã nhận xét về tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra những tình huống thử thách bên ngoài để các nhân vật của ông có điều kiện phát huy những sức mạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn vốn có của họ…Từ sau năm 1975, nhà văn chủ yếu tạo ra những tình huống tâm lý nhằm đưa nhân vật vào những cuộc đấu tranh nội tâm, những vận động tâm lý với những day dứt, sám hối hay chiêm nghiệm, nếm trải … Tác giả đã phân tích những dạng tình huống trong truyện ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu tình huống tự nhận thức, tình huống nghịch lý, tình huống bi kịch để làm rõ cho nhận thức trên [58]. Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan đã nêu rõ quan điểm coi việc tìm ra những dạng tình huống phổ biến trong sáng tác của ông là một thao tác để tìm hiểu sự “độc đáo , lặp lại và phát triển" trong quá trình tiếp cận đời sống hiện thực con người [30, 122]. Với quan điểm ấy, tác giả đi vào phân tích ba dạng tình huống trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu tình huống nhận thức, tình huống tương phản và tình huống thắt nút; từ đó đi đến nhận xét Sự tìm tòi của Nguyễn Minh Châu trong xây dựng tình huống diễn ra trên cả bề rộng lẫn bề sâu; đó cũng là một trong những phương diện thể hiện bản sắc riêng của Nguyễn Minh Châu [30]. Ngoài nhân vật, cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được xem xét ở nhiều yếu tố điểm nhìn, giọng điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ trần thuật, Trịnh Thu Tuyết [58], Tôn Phương Lan [30] có sự phát hiện thống nhất về điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trần thuật từ ngôi thứ ba Trần thuật “biết hết”, trần thuật khách thể và trần thuật từ ngôi thứ nhất. Trịnh Thu Tuyết có nhận xét chung “trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật hay nói khác đi là điểm 7 nhìn trần thuật được tác giả chọn lựa và xác định rất tinh tế, phù hợp với mỗi kiểu loại nhân vật và thể tài để mỗi hình thức trần thuật có thể phát huy cao nhất tác dụng nghệ thuật của nó.” [58,41]. Về giọng điệu trần thuật theo Tôn Phương Lan, giọng chủ âm trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là giọng thâm trầm, trước 1980, giọng chủ âm này lẫn vào giọng trữ tình quen thuộc, còn sau 1980, nó được thể hiện dưới nhiều sắc thái cụ thể, với những mức độ khác nhau. Đặc biệt vào thời kỳ đầu những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có xu hướng đi vào triết lý, xu hướng này chi phối giọng điệu của truyện khá rõ [30].Từ góc độ nghệ thuật truyện ngắn, Trịnh Thu Tuyết đã nhận định “ Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 có sự thay đổi rõ nét trong giọng điệu trần thuật, tính chất độc thoại tôn kính của sử thi đã được thay bằng tính chất bình đẳng, đa thanh hết sức mới mẻ.”[58,47]. Tác giả đã phân tích tính chất này trong sáng tác của nhà văn qua hai thời kỳ trước và sau năm 1975. Sau này, Trịnh Thu Tuyết đã tổng hợp đầy đủ hơn quá trình vận động và đổi mới trong giọng điệu trần thuật của Nguyễn Minh Châu Từ giọng điệu trần thuật tôn kính đậm chất sử thi, đến giọng điệu trần thuật suồng xã đậm chất đời thường; từ tính đơn giọng độc thoại đến tính chất phức điệu, đa thanh [59]. Ngoài điểm nhìn, giọng điệu trần thuật, Tôn Phương Lan, Trịnh Thu Tuyết còn đi vào phân tích ngôn ngữ, nhịp điệu trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Phương Lan giới hạn việc xem xét giới hạn ngôn ngữ trong phạm vi hẹp cách sử dụng ngôn từ của ông trong việc miêu tả, trong khả năng đưa ngôn ngữ văn chương gần gũi với ngôn ngữ của đời sống tạo nên tính biểu cảm, biểu trưng nhằm nâng cấp nghệ thuật cho ngôn ngữ trong tác phẩm của mình. Tôn Phương Lan cho rằng ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là thứ ngôn ngữ “ được tinh lọc “[30]. Còn Trịnh Thu Tuyết chỉ ra và phân tích nhịp điệu trần thuật phù hợp với mỗi loại thể tài, nhân vật của Nguyễn Minh Châu, khẳng định hiệu quả nghệ thuật của nó là 8 “tác động vào thế giới nội tâm của người đọc, buộc người đọc không chỉ “ chứng kiến “ câu chuyện sảy ra mà phải “can thiệp” bằng cách tìm hiểu suy ngẫm những vấn đề đặt ra trong tác phẩm…để cùng tác giả khám phá những bề sâu bí ẩn của cuộc sống, con người”[58,46]. Nhìn chung các bài viết và công trình nghiên cứu kể trên đã xem xét nhiều phương diện nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở nhiều góc độ, bình diện khác nhau, và dù là phác thảo khái quát hay phân tích cụ thể ít nhiều đều đề cập đến những khía cạnh, những yếu tố hoặc phương diện nào đó của nghệ thuật truyện ngắn. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này một cách toàn diện, trực tiếp, hệ thống theo quan điểm nghệ thuật là toàn bộ tổ chức nghệ thuật của tác phẩm thì thật sự chưa có một chuyên luận nào đi sâu nghiên cứu nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Ở luận văn này, tôi cố gắng khảo sát nhằm tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở góc độ thi pháp, từ đó góp phần làm rõ tư tưởng nghệ thuật cũng như tài năng độc đáo của của nhà văn mở đường “tinh anh và tài năng” này. Và thật sự, những bài viết và các công trình nghiên cứu kể trên đã là những gợi ý, tham khảo quý báu cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhìn từ góc độ thi pháp để thấy được những đổi mới, nét đặc sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người - nơi thể hiện tập trung tư tưởng nhân bản sâu sắc của Nguyễn Minh Châu, cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả trong các truyện cận truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu từ góc độ thi pháp cho thấy sự cách tân nghệ thuật mang tính chất mở đường của ông - mở ra những khả năng và hướng đi mới cho thể loại truyện ngắn trong nền văn xuôi đương đại. Nhìn chung, mục đích chính của luận văn là muốn khám phá những vẻ đẹp đặc sắc trong phong cách nghệ thuật, những giá trị đích thực của truyện 9 ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 và những đóng góp của tác giả cho sự đổi mới của nền văn xuôi Việt Nam. 4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các yếu tố thi pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 thể hiện qua các phương diện nghệ thuật tổ chức hình tượng không gian - thời gian, nhân vật; tổ chức cốt truyện, trần thuật. Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đặc biệt là các tác phẩm sau năm 1975, vì đây là những sáng tác có giá trị nghệ thuật cao, thể hiện rõ sự trăn trở tìm tòi đổi mới, sự " Dũng cảm điềm đạm " của một cây bút tài hoa, giàu lương tâm và trách nhiệm, rất đỗi nhân hậu và nặng lòng với con người, cuộc sống. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng linh hoạt và kết hợp các phương pháp sau Phương pháp thống kê, phân tích tác phẩm văn học dựa vào những đặc trưng thể loại. Truyện ngắn, loại tự sự. Phương pháp hệ thống luận văn khảo sát, phân tích các hiện tượng văn học như những bộ phận của một cấu trúc, những yếu tố của một hệ thống. Sử dụng các khái niệm công cụ của thi pháp học khi tiếp cận tác phẩm với góc độ nghiên cứu theo hướng thi pháp. Sử dụng phương pháp so sánh khi xem xét sự vận động của quá trình văn học, sự đổi mới trong sáng tác của tác giả thông qua những đặc điểm của truyện ngắn sau 1975. Sử dụng kết hợp linh hoạt một cách khoa học các phương pháp khác. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung được trình bày trong ba chương Chương I. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu 10 Chương II. Nghệ thuật kết cấu và xây dựng tình huống Chương III. Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian và lựa chọn giọng điệu trần thuật 11 Chương I QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn văn học mới Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền tuyến Những người yêu mến văn học thường dành cho nhà văn Nguyễn Minh Châu một tên gọi vừa giản dị vừa gần gũi dễ thương nhà văn chiến sĩ. Một người chiến sĩ luôn hào mình vào mọi hoàn cảnh của đất nước và chọn cho mình một lẽ sống cao đẹp. Chính lí tưởng cao đẹp là điều mà cây bút dũng cảm của Nguyễn Minh Châu luôn hướng tới và thể hiện rõ trên từng trang viết. Cả cuộc đời của mình Nguyễn Minh Châu gắn bó với cách mạng và quần chúng nhân dân, vì vậy hơn ai hết, ông thiếu rõ cuộc sống của nhân dân với những tâm tư, tình cảm, ngay cả những biến động tinh vi và nhỏ nhất trong tâm hồn họ cũng được ông thấu hiểu, ông hiểu rõ cuộc sống của những người lính, của chiến tranh và cách mạng và đây cũng chính là mảnh đất nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn ông. Sinh ra ở một vùng quê nghèo của miền trung gian khổ làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cuộc đời ông, ngay cả khi ông đã đi khắp mọi miền đất nước luôn vẫn chịu những ám ảnh bởi cái dữ dội, cái nghèo khó, hoang sơ của đất mẹ. Nhiều tác phẩm của ông đã thực sự gây xúc động với những trang viết nặng ân tình trong sự gắn bó máu thịt và am hiểu sâu sắc cho con người và quê hương. Cuộc đời của Nguyễn Minh Châu luôn gắn liền với nhiều sự kiện của cách mạng dân tộc và ở đâu, dù trong thời gian nào đi nữa ấn tượng lớn nhất về ông trong lòng người đọc chính là hình ảnh của một anh bộ đội cầm bút. Đó là những trang viết khi ông khoác trên mình chiếc ba lô, tham gia các cuộc chiến. Hay những tác phẩm là kết quả của những ngày đi thực tế, lăn lộn ở chiến trường của nhà văn trong những năm trước 1975. Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự “ Tôi có kinh nghiệm mỗi chuyến đi thực tế của mình chỉ cần có được cái may mắn và vinh dự, cuộc đời trao cho mình lấy một hai con 12 người như thế , họ đã sáng tác cho mình một nửa, làm hộ cái công việc nặng nhọc, vất vả cho mình một nửa, họ như cái vạch nối giữa đời sống và nhà văn ” [ 28,96 ]. Năm 1975 sau khi đất nước vừa giải phóng, với cuốn sổ ghi chép trên tay, ông có mặt ở nhiều nơi. Đất nước tuy hoà bình nhưng phải oằn mình đối mặt với những khó khăn và phức tạp mới, phải giải quyết những hậu quả của chiến tranh để lại trong đó có sự gắn liền và thống nhất hai miền. Năm 1977 tiểu thuyết Miền cháy ra đời đó là kết quả của một hành trình gian khổ của người lính trong thời chiến. Năm 1983, tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ra đời. Trong một cuộc thảo luận với báo văn nghệ Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự “ Sau chiến tranh, tôi đã đi thực tế nhiều lần, gặp nhiều đồng chí chỉ huy và chiến sĩ cũ chuẩn bị cho một cuốn tiểu thuyết mà bối cảnh là cuộc chiến đấu anh hùng ở thành cổ Quảng Trị năm 1972. Nhưng khi bắt tay vào làm thì song song với những vấn đề chiến tranh chống Mỹ, cái “đời sống của họ hôm nay ” nó bắt tôi phải quan tâm. Chắc các đồng chí cũng thấy những biểu hiện của lối sống, đạo đức và thậm chí là cả quan niệm sống của những con người xung quanh ta - nhất là thanh niên - khiến chúng ta không thể không quan tâm và lo lắng ”. Trong sự nghiệp văn học của mình, Nguyễn Minh Châu đã dành nhiều trang viết của mình cho giải đất Miền Trung gian khổ và khối lửa. Đó là những cuộc sống, con người cụ thể trong mối quan hệ với làng xóm, quê hương, với vận mệnh đất nước, với thiên nhiên gần gũi ... một cách sống động. Ta bắt gặp cuộc sống và con người hiện lên với một nét riêng rất Nguyễn Minh Châu trong Mảnh đất tình yêu hay Phiên chợ Giát - tác phẩm được hoàn thành trên giường bệnh khi nhà văn đang phải chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác ở viện 108 - tác phẩm được Nguyên Ngọc đánh giá là " một tuyệt tác của văn học hiện đại ". 13 Nguyễn Minh Châu đã làm việc, đã viết, đã cống hiến cho đến giây phút cuối cùng của đời mình. Một con người suốt đời lao động và sáng tạo nghệ thuật. Cho đến những ngày cuối đời mình trên giường bệnh, nhà văn vẫn kê từng trang giấy trên gối để viết. Ông đã dốc hết cả hơi thở cuối cùng của mình cho các trang văn. Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới chung của văn học và thời đại Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm 1975 Nếu như Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh chủ yếu là hai cuộc kháng chiến và gặp nhiều khó khăn trở ngại từ khâu sáng tác đến tiếp nhận, dẫn đến mang đậm tính chất của văn học thời chiến và nặng tính phiến diện trong việc phản ánh đời sống. Với việc quy các sự đa dạng, phức tạp của hiện thực đời sống vào những mô hình mang tính đơn giản, quy phạm, vào những hướng giải quyết có tính công thức, đề cao bút pháp hiện thực, tái hiện đời sống trong trạng thái thức giống như nó tồn tại, nhiều khi để mục đích phục vụ chính trị chi phối ít nhiều...đáp ứng được nhu cầu của lịch sử, tạo nên tác dụng to lớn trong việc thức tỉnh, động viên tuyên truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho nhân dân...thì văn học thời kỳ sau năm 1975 lại có những đổi mới mang tính tất yếu. Trong những điều kiện mới của lịch sử - xã hội đất nước thống nhất, cuộc kháng chiến thắng lợi mở ra một thời kỳ mới, thời kì của độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội...Văn học cũng đã có những đổi mới thực sự. Gắn với vận mệnh của đất nước một cách chặt chẽ, văn học dần chuyển sang một thời kì mới với những vận động và quy luật khác trước. Ngay sau năm 1975, cả nước đón nhận tinh thần hào hứng phấn khởi của niềm vui chiến thắng nhưng đời sống còn biết bao khó khăn, gian khổ, thử thách những di hoạ của chiến tranh, đạo đức nhân cách của con người, và hàng loạt các vấn đề khác... Văn học với quan niệm là một hình thái của ý thức xã hội, đã nhanh chóng chuyển mình để phản ánh những gì đang diễn ra 14 vô cùng mạnh mẽ của cuộc sống. Tình hình xã hội đã đặt ra những yêu cầu mới trong đó có văn hoá nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Xong ngay lập tức văn học chưa bắt kịp được những yêu cầu đó một cách thoã mãn. Năm năm sau, năm 1980 đất nước chúng ta rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, và chính nó ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực của đời sống, văn hoá xã hội, trong đó có văn học. Một thời kì đầy biến động đã đẩy không ít văn nghệ sĩ rơi vào sự chao đảo, không giữ vững lập trường, bối rối trên con đường lựa chọn cho mình một phương hướng sáng tác đúng đắn. Nguyên Ngọc đã từng nhận xét đây chính là một " khoảng chân không trong văn học ". Vượt qua khó khăn của cuộc khủng hoảng, từ năm 1986 nước ta thực sự bước vào công cuộc đổi mới toàn diện. Đại hội Đảng VI với những quan điểm mới về văn hoá xã hội và nhất là văn học nghệ thuật đã là nguồn động viên khích lệ và tạo nên sự bứt phá mạnh mẽ trong văn học. Xuất phát từ đổi mới mạnh mẽ của văn hoá xã hội, văn học cũng không ngoại lệ, các sáng tác văn học đã kịp thay đổi để bắt kịp với hiện thực đời sống và nhu cầu của người đọc. Cuộc sống khác xưa vì thế con người không chỉ quan tâm đến sự kiện lớn của đất nước, ôn lại lịch sử mà họ quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống thường nhật, đến mỗi cá nhân và từng số phận con người. Họ chú ý nhiều hơn đến cuộc sống riêng tư. Văn học lúc này thực sự phải có một sức khái quát lớn, hiện thực cuộc sống phải được khai thác ở cả bề rộng và chiều sâu để đáp ứng nhu cầu con người. Nhu cầu về thẫm mĩ cũng thay đổi đáng kể và đi vào thực tế hơn. Hàng loạt các nhà văn đã tự đổi mới mình như Vũ Tú Nam, Chu Văn, Nguyễn Khải, Bùi Hiển, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp ... và Nguyễn Minh Châu cũng không là nhà văn ngoài lệ. Các tác phẩm trong thời kì này đã mở rộng và đào sâu sự khám phá hiện thực con người trong tính đa dạng, phức tạp và luôn biến động trong xu thế dân chủ hoá và thức tỉnh ý thức cá nhân, tinh thần nhân bản. Chính văn học đã đổi mới ngay từ nhận thức, trong phương thức 15 VHSG- Trong tiến trình văn học Việt Nam, ở những giai đoạn trước, sự có mặt của nữ giới không chiếm ưu thế. Những năm 60 thế kỉ XX, một số cây bút nữ đã khẳng định vị thế trên văn đàn nhưng chưa thành một lực lượng chủ yếu. Đặc biệt, ở bộ phận văn học miền Nam, đội ngũ nhà văn nữ bắt đầu gây ấn tượng ở số lượng cũng như chất lượng. Sau 1975, và nhất là sau 1986, bên cạnh những tác phẩm của nam giới, vẫn tồn tại một mảng văn học nữ, mang đến một sức sống mới, với những cảm xúc mới mẻ bằng sự mẫn cảm nữ giới. Sự lên tiếng của những người viết văn nữ làm nên một diện mạo khác, riêng so với nam giới. Nhà phê bình Thái Phan Vàng Anh 1. Sự lên tiếng của nữ giới Trong tiến trình văn học Việt Nam, ở những giai đoạn trước, sự có mặt của nữ giới không chiếm ưu thế. Những năm 60 thế kỉ XX, một số cây bút nữ đã khẳng định vị thế trên văn đàn nhưng chưa thành một lực lượng chủ yếu. Đặc biệt, ở bộ phận văn học miền Nam, đội ngũ nhà văn nữ bắt đầu gây ấn tượng ở số lượng cũng như chất lượng. Sau 1975, và nhất là sau 1986, bên cạnh những tác phẩm của nam giới, vẫn tồn tại một mảng văn học nữ, mang đến một sức sống mới, với những cảm xúc mới mẻ bằng sự mẫn cảm nữ giới. Sự lên tiếng của những người viết văn nữ làm nên một diện mạo khác, riêng so với nam giới. Ngoài thế hệ các nhà văn trưởng thành từ giai đoạn chống Mỹ từng bước thay đổi cách viết như Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Ngọc Tú,… một thế hệ mới ra đời, đóng dấu ấn cá nhân bằng những tác phẩm được đông đảo bạn đọc đón nhận. Cho đến nay, sau 40 năm thống nhất đất nước, sau 30 năm đổi mới, đã có thêm ngày càng nhiều những nhà văn “tên tuổi”, như Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Y Ban, Dạ Ngân, Phan Thị Vàng Anh,… góp phần khẳng định một thế hệ nhà văn cầm bút và trưởng thành từ sau 1975. Không có nhiều tuyên ngôn, song bằng những trang viết lặng thầm, bền bỉ, bằng số lượng tác phẩm được bạn đọc đón nhận và… thừa nhận, các nhà văn nữ thế hệ trưởng thành sau 1975 đã góp phần không nhỏ trong sự chuyển đổi văn học. Sau 1975, số lượng các nhà văn nữ ngày càng nhiều. Tiếng nói nữ giới trong văn chương có khi còn “trấn áp” cả tiếng nói của nam giới tiếng nói của nhà văn nam, của nhân vật nam. Ban đầu, cũng có không ít ý kiến cho rằng văn chương phụ nữ, chuyện của phụ nữ,… chẳng bao giờ có tầm, một khi họ ít quan tâm về… đại sự. Song, cuộc sống không chỉ được dệt nên bởi các đại tự sự; và hơi thở của cuộc sống lại thường nằm ở những chi tiết, những câu chuyện nhỏ nhất mà chỉ trái tim nhạy cảm của phụ nữ mới có thể phát hiện, trân quý và níu giữ. Về sau, cùng với những thay đổi của xã hội trong quan niệm về chức năng, nhiệm vụ của văn chương; cùng với những đòi hỏi khác của độc giả về văn học như một loại hình giải trí, các câu chuyện của phụ nữ, gắn với phụ nữ,… ngày càng được chú ý. Chuyện thường ngày, chuyện tình yêu, hôn nhân, chuyện tủn mủn, và những vấn đề nhức nhối của xã hội,… đĩnh đạc bước vào các trang văn phụ nữ và trở thành những câu chuyện không chỉ của phụ nữ. Tiếng nói của giới nữ trong văn học khiến độc giả phải nghĩ khác về một bộ phận văn học nữ. Không còn đi bên lề, văn xuôi nữ dần sóng đôi với văn xuôi của các nhà văn nam giới, cùng làm nên một diện mạo nói chung của văn xuôi sau 1975. Và nếu xem sự vận động của văn xuôi 30 năm đổi mới như một đồ thị hình sin, không phải không có những thời kì, xếp quanh vị trí đỉnh, vị trí cực đại là các cây bút nữ… Có thể nói, đã có một diễn ngôn của giới nữ trong văn xuôi thế hệ nhà văn sau 1975. Đầu thập niên 90 của thế kỉ XX, văn đàn Việt Nam xôn xao bởi sự xuất hiện của nhiều cây bút nữ mới, đặc biệt ở lĩnh vực truyện ngắn. Phạm Thị Hoài gây ấn tượng với tiểu thuyết Thiên sứ và tập truyện ngắn Mê lộ. Y Ban khẳng định ngay tên tuổi với truyện ngắn Bức thư gửi mẹ Âu Cơ – giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1989 – 1990, và tập truyện Người đàn bà có ma lực – giải nhì cuộc thi viết về Hà Nội của NXB Hà Nội năm 1993. Sau một vài truyện ngắn gây tiếng vang, Võ Thị Hảo trở thành một tên tuổi kể từ tập truyện Biển cứu rỗi. Tiếp ngay đó, Nguyễn Thị Thu Huệ với mỗi năm mỗi tập truyện Cát đợi, Hậu thiên đường, Phù thủy, và gần đây là Thành phố đi vắng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2012, thể hiện sức bền và không ngừng đổi mới cách viết của nhà văn… Với những tác phẩm xuất bản rải rác từ giữa những năm 80, Lý Lan, Dạ Ngân, Bích Ngân,… đã bền bỉ xác lập chỗ đứng sau ba thập kỉ sáng tác không ngừng nghỉ ở nhiều thể loại. Hơn kém nhau chừng nửa thập kỉ, xuất bản trước sau cũng chừng nửa thập kỉ, Trần Thùy Mai, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà, Phan Thị Vàng Anh,… cùng tạo dấu ấn khi còn khá trẻ và cùng làm nóng văn đàn với rất nhiều tập truyện ngắn ở thập niên 90 của thế kỉ XX. Đáng mừng là trong 15 năm đầu thế kỉ XXI, những cái tên từng lạ lẫm, mới mẻ ấy không chỉ trở nên rất quen thuộc mà tiếp tục buộc độc giả phải nhắc tên. Một số tác giả đã thử nghiệm ở tiểu thuyết, tản văn và có những thành công mới Võ Thị Hảo, Y Ban, Lý Lan, Dạ Ngân, Thùy Dương, Võ Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà, Phan Thị Vàng Anh,…. Văn xuôi nữ đầu thế kỉ XXI còn được tiếp sức bởi một số nhà văn nữ thế hệ sau 1975 sống và viết ở hải ngoại như Thuận, Đoàn Minh Phượng,… với nhiều tác phẩm lần đầu được xuất bản ở trong nước. Những tên tuổi, những phong cách nghệ thuật đã hình thành một dòng văn nữ trong văn học Việt Nam 30 năm đổi mới. Và để có được những thành tựu không nhỏ ấy, các nhà văn nữ đã luôn “rút ruột” sáng tác cho chính mình, cho giới mình, với tâm niệm “Luôn ước muốn sáng tạo một nền văn học cho chính mình a literature of your own. Cho chính mình? Tức là cho thời đại mình”[1]. Bàn về các thế hệ những nhà văn nữ, nhà văn Văn Giá cho rằng, nhìn vào những đóng góp của nhà văn nữ ở nước ta, thì thời nào cũng có những đỉnh cao, cái tôi trong văn học nữ hôm nay là cái tôi đa diện, đa ngã[2]. Trong xu thế hội nhập văn học toàn cầu, thế hệ nhà văn nữ sau 1975 không tỏ ra thụ động. Một số tác giả nữ đã đạt giải thưởng ở nước ngoài. Trong bộ sách Phái đẹp – Cuộc đời & Cây bút, tập 1, ghi lại 43 chân dung nhà văn nữ nhiều thế hệ vẫn còn một số nhà văn chưa được điểm diện chỉ có Nguyễn Ngọc Tư 2008 được trao Giải thưởng Văn học ASEAN nhà văn nữ duy nhất trong số 17 nhà văn được giải thưởng từ 1996-2013. Các nhà văn nữ lên tiếng về điều gì? Nói như Y Ban “Tôi muốn xã hội hãy đọc tác phẩm của các nhà văn nữ như một sự lắng nghe, một sự thấu hiểu. Vì đó chính là tiếng lòng của họ, là những khát khao tự giải phóng bản thân mình”[3]. Như vậy, văn chương nữ trước hết là tiếng lòng, là khát khao của phụ nữ, là bất cứ chuyện gì liên quan đến họ, giúp họ trải nghiệm cuộc sống, khẳng định và giải phóng bản ngã. Văn xuôi nữ kể những câu chuyện về tình yêu, hôn nhân, gia đình,… không phải cái cách lấy những đề tài gần gũi nhất của phụ nữ để kể, tả, bình luận từ “bên ngoài” như các nhà văn nam giới, mà kể về những cảm giác, những run rẩy hạnh phúc, đớn đau,… chỉ của phụ nữ. Văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 vẫn quan tâm đến những chuyện lớn của đất nước, của xã hội, song thường từ những góc khuất cuộc sống, những thân phận bé nhỏ. Đã có một “chiến tranh mang khuôn mặt nữ giới” trong sáng tác của Dạ Ngân, Võ Thị Hảo,Võ Thị Xuân Hà, Trần Thanh Hà,… Đã có những câu chuyện lịch sử được nhìn từ góc nhìn giới, nhân vật lịch sử được chiêu tuyết hay kết tội đều từ điểm nhìn bên trong truyện ngắn lịch sử của Trần Thùy Mai, Trần Thị Trường, tiểu thuyết lịch sử của Võ Thị Hảo…. Cũng đã có vô vàn tiếng nói phẫn nộ, bức xúc trước những tiêu cực, tha hóa của xã hội thời hậu chiến trong các tác phẩm của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan,… Có những bức tranh xã hội rộng lớn được các nữ nhà văn lựa chọn thể hiện bằng tiểu thuyết như của Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Thùy Dương, Thuận,…. Có nhiều chi tiết đời sống lớn, nhỏ,… được tái hiện từ những ngẫm, nghĩ, cảm nhận của các nhà văn nữ qua tản văn như của Dạ Ngân, Bích Ngân, Thảo Hảo, Trần Thanh Hà,…. Nhìn chung, văn xuôi nữ thế hệ nhà văn sau 1975 không chỉ bao quát nhiều đề tài mà còn trải rộng ở nhiều thể loại. Ở đề tài nào, thể loại nào, các nhà văn nữ cũng tạo nên những dấu ấn nhất định, không chỉ bởi tài năng, bởi những nhọc nhằn nghiêm túc của nghiệp viết lách, mà còn bởi những đặc trưng giới tính đậm nhạt trong các trang văn. 2. Từ ý thức giới đến tinh thần nữ quyền Ý thức giới Gender awareness là khái niệm chỉ mức độ kiến thức và sự hiểu biết về khác biệt trong vai trò và mối quan hệ giữa nam giới và nữ giới. Ý thức giới được đề cập nhiều ở phương diện xã hội học, xuất phát từ nỗ lực đem lại bình đẳng giới, bảo vệ giới nữ trước những định kiến xã hội, những quan niệm truyền thống vốn coi thường phụ nữ, mặc định phụ nữ phải yếu kém hơn nam giới. Dĩ nhiên, phụ nữ có giới tính riêng – giới tính nữ, phân biệt với giới tính nam. Song khái niệm “nữ tính” vốn do đàn ông gán cho phụ nữ để chỉ những đặc điểm về mặt xã hội thay vì những đặc điểm thuộc về bản tính, giới tính, từ đó quan niệm phụ nữ là yếu kém yếu đuối, phụ thuộc,… chỉ là kết quả của ý thức hệ nam quyền kéo dài qua nhiều thế kỉ. Và với cách nhìn lấy nam giới là trung tâm, người nữ đã bị biến thành… phụ nữ. Nói như Simone de Beauvoir trong câu nói nổi tiếng toàn thế giới “Người ta không phải sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ”. Đấu tranh cho giới luôn là hoạt động âm thầm của nhiều thế hệ phụ nữ từ xưa đến nay. Song, phải đến thế kỉ XVII, đặc biệt là vào thế kỉ XVIII, những tiếng nói của phụ nữ, vì phụ nữ, mới được vang lên một cách mạnh mẽ, riết róng. Xuất bản quyển sách đầu tay với tựa đề Một đề nghị nghiêm túc cho quý bà A Serious Proposal to the Ladies, 1694, và nhiều tác phẩm liên quan đến phụ nữ sau đó, nhà văn người Anh Mary Astell được xem là một trong những người phụ nữ đầu tiên đề cập đến các vấn đề nữ quyền. Tuy vậy, phải đến thế kỉ XVIII, trên thế giới mới thực sự xuất hiện những nhà nữ quyền đúng nghĩa. Với cuốn Sự bào chữa về quyền của phụ nữ Vindication of the Rights of Woman, 1792 và nhiều tác phẩm khác, Mary Wollstonecraft, nhà triết học, nhà văn người Anh, đã tiến hành một cuộc bút chiến “vì giới tính của tôi, không phải vì bản thân” và được mệnh danh là là “nhà nữ quyền đầu tiên”, “người mẹ của thuyết nữ quyền”. Cùng thời với Mary Wollstonecraft, tại Pháp, Olympe de Gouges cũng đưa ra Bản tuyên ngôn về những quyền của đàn bà và nữ công dân Declaration of the Rights of Woman and the Female Citizen, 1791 và đã đấu tranh vì phụ nữ và vì chế độ da đen cho đến chết với lời tuyên bố dõng dạc “Một phụ nữ có quyền bước lên đoạn đầu đài thì họ cũng phải có quyền bước lên diễn đàn”. Được xem là nhà nữ quyền đầu tiên tại Mĩ, Judith Sargent Murray cũng đã lên tiếng đòi bình đẳng giới giữa nam và nữ với tiểu luận Bàn về sự bình đẳng giới On the Equality of the Sexes, 1790, mở đường cho suy nghĩ, những ý tưởng mới. Tư tưởng nữ quyền thế kỉ XIX được biết đến với một số tên tuổi tiêu biểu như Bertha von Suttner 1843- 1914 – tiểu thuyết gia người Áo, Emmeline Pankhurst 1858-1928 – nhà hoạt động chính trị người Anh,… Sang thế kỷ XX, nhà văn người Anh Virgina Woolf với Căn phòng riêng A Room of One’s Own, 1929, Ba đồng ghinê Three Guineas, 1938 và nhà triết học, nhà văn Pháp Simone de Beauvoir với Giới tính thứ hai 1949 đã khiến tư tưởng nữ quyền lan rộng ra toàn thế giới… Hoạt động nữ quyền và đấu tranh vì bình đẳng giới liên tục diễn ra sôi nổi từ ấy cho đến giờ. Ý thức về giới tính ở chính giới nữ cũng đã được nâng lên nhiều so với các thế kỉ, các thập kỉ trước. Như vậy, chỉ có phụ nữ mới nói được tiếng nói của giới họ. Điểm lại tiếng nói nữ quyền trên thế giới, càng thấy rõ rằng, các nhà văn nữ tỏ ra có nhiều ưu thế hơn trong việc giúp phần còn lại của thế giới và cả thế giới hiểu rõ phụ nữ, họ là ai, thông qua các tác phẩm văn chương. Ở Việt Nam, các nhà văn nữ, đặc biệt là thế hệ sau 1975, cũng là những người đưa ý thức giới từ đời sống vào văn học, và ngược lại, bằng văn học, nâng cao những nhận thức về giới. Các nhận thức về việc phụ nữ phải được xem là một nửa dân số, phụ nữ được quyền tham gia và quyết định ở mọi phương diện đời sống, phụ nữ phải được bảo vệ và bồi dưỡng, đào tạo, phụ nữ phải được tự do trong khẳng định bản ngã, tự do trong tình dục,… đã được nhiều nhà văn nữ công khai lên tiếng, giúp cho cả hai giới nam và nữ nhận biết sự khác biệt giới tính cũng như những đòi hỏi bức thiếtvề bình đẳng giới. Không đến mức phủ định hoàn toàn cách nhìn nhận của nam giới về phụ nữ như nhà văn, nhà triết học mang tư tưởng nữ quyền người Pháp François Poulain de la Barre 1647-1723 cho rằng “Tất cả những gì được những người đàn ông viết về phụ nữ đều phải được xem xét với sự nghi ngờ, bởi vì họ vừa là quan tòa vừa là bè phái”[4]; song các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 ở Việt Nam đã chứng minh rằng, nhờ có họ, xã hội Việt Nam đã có những cách nhìn khác hơn về phụ nữ so với trước. Phụ nữ trong trang viết của các nhà văn nữ, phụ nữ của đất nước Việt Nam thời hậu chiến, thời đổi mới, đã ý thức hơn về bản thân, về giới tính của chính mình. Và từ những thức tỉnh giới tính ấy, trong nhiều tác phẩm, tiếng nói nữ giới tiếng nói của nhà văn nữ, của nhân vật nữ, của tự thân những câu chuyện về phụ nữ… đã trở thành những diễn ngôn mang đậm tinh thần nữ quyền. Thật ra, không hẳn sáng tác của bất kì nhà văn nữ nào cũng mang tinh thần nữ quyền. Song, mang đặc trưng của giới, các nhà văn nữ khó có thể chối bỏ những cảm nhận nữ tính trong tư tưởng, trong cách hành văn của bản thân. Với những nhà văn nữ mang ý thức viết về cho mình/giới mình, lối viết nữ giới và những câu chuyện liên quan đến các trải nghiệm giới tính lại càng được bộc lộ rõ. Cũng chỉ những trải nghiệm giới tính của chính bản thân, hay của những hóa thân thành những số phận đồng giới mới khiến văn xuôi nữ trở thành những diễn ngôn của “giới tính thứ hai”. Kể từ sau 1975, chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại xuất hiện nhiều đến thế những tác phẩm văn học mang đậm ý thức giới tính. Nhiều tác phẩm đã công khai “danh tính” của giới nữ ngay từ nhan đề Hành trang của người đàn bà Âu Lạc Võ Thị Hảo, Người đàn bà ám khói Nguyễn Thị Thu Huệ, Người đàn bà bí ẩn Phạm Thị Ngọc Liên, Người đàn bà bơi trên sóng Bích Ngân, Người đàn bà kể chuyện, Tiểu thuyết đàn bà, Ba người đàn bà Lý Lan, Đàn bà xấu thì không có quà, I am đàn bà, Người đàn bà có ma lực Y Ban, Trên mái nhà người phụ nữ, Gánh đàn bà Dạ Ngân,… Nhiều tiêu đề tác phẩm chứa đựng những kí hiệu “ám chỉ” về chuyện của giới nữ Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Xuân Từ Chiều Y Ban; Nàng tiên xanh xao, Hồn trinh nữ, Góa phụ đen Võ Thị Hảo, Thiếu phụ chưa chồng Nguyễn Thị Thu Huệ, Gia đình bé mọn Dạ Ngân, Chuyện của con gái người hát rong Võ Thị Xuân Hà, Gái một con Trần Thanh Hà, Thần nữ đi chân không Trần Thùy Mai,… Đa dạng về phong cách, thể loại, những người đàn bà viết thế hệ sau 1975 đã đi từ những diễn ngôn cá nhân đến những diễn ngôn của giới, biến những ý thức về giới trong xã hội thành những “tuyên bố” của giới nữ thông qua những câu chuyện trải nghiệm giới tính trong văn chương. Đó là thân phận phụ nữ với những bi kịch, những nỗi đau bởi chiến tranh trong các tác phẩm Trong nước giá lạnh Võ Thị Xuân Hà, Thế giới xô lệch Bích Ngân, Tiểu thuyết đàn bà Lý Lan,… Đó là những mặc cảm sinh lí, mặc cảm giới tính trước những định kiến “nam quyền” của xã hội trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực Y Ban, Hậu thiên đường, Thiếu phụ chưa chồng Nguyễn Thị Thu Huệ, Hồn trinh nữ, Người sót lại của rừng cười Võ Thị Hảo, Thập tự hoa, Trăng nơi đáy giếng Trần Thùy Mai hay Mưa ở kiếp sau Đoàn Minh Phượng, Paris 11 tháng 8 Thuận,… Với lối viết “tự ăn mình”, nhân vật trong văn xuôi nữ chính là sự hóa thân của chủ thể nữ giới. Ý thức giới thể hiện rõ ở phương thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất, nhân vật tôi/đàn bà/người kể chuyện kể chuyện mình, chuyện giới mình, chuyện thế sự,… qua trường nhìn phụ nữ. Về phương diện này, các nhà văn nữ thường chọn hình thức tự thuật. Điểm nhìn của chuyện/truyện hầu hết đều là điểm nhìn bên trong. Nhân vật và người kể chuyện cũng thường đồng nhất, xưng tôi để kể những chuyện chỉ riêng tôi mới biết chuyện trinh tiết, chuyện trở thành đàn bà, chuyện ngoại tình, chuyện chối bỏ bản năng làm mẹ,…. Những bí ẩn giới tính trong nhiều trang văn nữ giới trở thành những sự chia sẻ, trải lòng. Tôi chỉ sống để đi tìm những bí ẩn của các số phận đàn bà trong gia đình tôi là câu chuyện của Tôi – Mai Chi trong Mưa ở kiếp sau Đoàn Minh Phượng. Tôi, “cái giống lạc loài”, không đủ dũng khí để bảo vệ hài nhi trong bụng – cũng là “cái giống lạc loài” của tình yêu… lại là một câu chuyện giới tính khác được lồng ghép khéo léo qua hình thức kể chuyện bằng thư độc đáo Bức thư gửi mẹ Âu Cơ Y Ban. Tôi, người phụ nữ đã đi qua nhiều khúc đoạn của cuộc đời, đã từng bay lên thiên đường và rơi xuống bởi gánh đàn bà trên vai,… cũng là những chia sẻ đằm thắm trong một tản văn của Dạ Ngân Gánh đàn bà,… Dưới hình thức tự sự như một lời độc thoại, song lại luôn đặt vấn đề để đối thoại với chính mình, giới mình; đối thoại với nửa còn lại của thế giới… truyện ngắn, tiểu thuyết tự thuật và tản văn nữ sau 1975 đã đem “chuyện” của giới nữ đến gần hơn với công chúng. Nhiều tác phẩm có sự đánh tráo ngôi kể, người kể chuyện tôi/ đàn ông/ hoặc ẩn sau một gương mặt phụ nữ khác truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, tiểu thuyết Võ Thị Xuân Hà…; cũng có nhiều tác phẩm được kể bởi lối trần thuật khách quan hóa từ ngôi thứ ba, nhưng điểm nhìn hạn tri khác với truyền thống và diễn ngôn chủ đạo của tác phẩm vẫn là diễn ngôn nữ giới, điểm nhìn kể chuyện vẫn là điểm nhìn bên trong của nữ giới. I am đàn bà Y Ban, Thiếu phụ chưa chồng Nguyễn Thị Thu Huệ, Gia đình bé mọn, Con chó và vụ li hôn Dạ Ngân, Tiểu thuyết đàn bà Lý Lan,… là những tác phẩm như thế. Truyện được kể từ điểm nhìn của người kể chuyện hàm ẩn/ tác giả nữ. Điểm nhìn nữ giới này lại thường xuyên đồng nhất/ thống nhất với điểm nhìn của các nhân vật nữ Thị trong I am đàn bà, My trong Thiếu phụ chưa chồng, Tiệp, Đoan trong Gia đình bé mọn, Con chó và vụ li hôn, Thoa trong Tiểu thuyết đàn bà… Với đặc điểm đó, văn xuôi nữ thế hệ nhà văn sau 1975 hiếm khi khách quan, trung tính. Giọng điệu trần thuật trong nhiều tác phẩm thường giàu cảm xúc. Đặc trưng giới và ý thức về giới khiến các nữ văn sĩ thường để “lộ” tư tưởng, quan niệm, tình cảm chủ quan nhiều hơn so với các nhà văn nam giới. Điều này một mặt giúp các diễn ngôn nữ giới trong văn chương được bộc lộ rõ nét; song mặt khác lại khiến họ đôi khi đã tự khuôn mình vào khu vực “văn học giới”, thay vì nhập vào dòng văn học đương đại nói chung. 3. Nữ quyền luận và hiện sinh – những tiếng nói khẳng định nhân vị giới Simone de Beauvoir vừa là một nhà nữ quyền luận vừa là nhà văn mang tư tưởng hiện sinh. Kết hợp, bổ sung hai triết thuyết lớn với những nhận định nhân bản, de Beauvoir được xem là một trong những người sáng lập ra thuyết Nữ quyền hiện sinh. Tiếp nhận những lí thuyết hiện đại, thế hệ nhà văn nữ sau 1975 đã đem lại một tinh thần mới cho văn học đương đại – điều cơ bản nhất là khẳng định nhân vị đàn bà. Ý thức nữ quyền là sự phát triển và thể hiện cao nhất của ý thức về giới ở phụ nữ. Vượt lên trên sự tự ý thức về giới tính, về những đặc trưng của giới nữ trong tương quan với giới nam, ý thức nữ quyền là sự tự nhận thức về quyền và địa vị của phụ nữ. Từ những nhận thức ấy, những nhà văn nữ đã bằng nhiều cách, phản đối những gì chống lại phụ nữ trên mọi phương diện, trong đó có bất bình đẳng tính dục. “Trong bản thể con người vốn có một thứ căn bản nguyên sơ là dục vọng, và thứ dục vọng này đưa đến ham muốn tiếp xúc nhục thể, tạo thành sự cộng hưởng sinh hoạt” Michel Foucault [5]. Nhà nữ quyền hiện sinh de Beauvoir nổi tiếng với những nhận định về bình đẳng giới trong tình dục “Để trở thành một cá nhân hoàn toàn và bình đẳng với nam giới thì người nữ phải được tiếp cận với thế giới nam giống như người nam tiếp cận với thế giới nữ”[6]. Khẳng định nhân vị đàn bà, đã có một hiện sinh tính dục trong các trang văn phụ nữ. Cùng với những diễn ngôn tính dục được trao cho phụ nữ, văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 đã làm nên một âm hưởng nữ quyền trong bức tranh chung của văn học đương đại Việt Nam. Trong hành trình xác lập cái tôi nữ giới, người kể chuyện/ tác giả nữ không chỉ khẳng định bản ngã mà còn tự giải phóng bản thân, bằng ý thức về vẻ đẹp nữ giới; ý thức về cái tôi cá thể; về những đòi hỏi bản năng,…; những trải nghiệm tính dục cũng xuất hiện với mật độ ngày càng nhiều tác phẩm Y Ban, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà, Thuận…. Những năm đầu sau 1986, bối cảnh xã hội những năm tháng vừa mới ra khỏi chiến tranh, vừa làm quen với thời đổi mới khiến ý thức nữ quyền trong nhiều tác phẩm dù đã lên tiếng, song vẫn chưa được đẩy lên đến mức bạo liệt Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực, Con chó và vụ li hôn.... Nhà không có đàn ông của Dạ Ngân là tác phẩm đề cập trực tiếp quyền của đàn bà khá sớm. Từ cái nhìn “bên trong” của nhân vật, của giới, Dạ Ngân bình luận “Những người thân của chị đã thành công khi họ nhân danh đủ thứ, truyền thống và tiêu chuẩn, tình thương và sự hy sinh nhưng không ai để lộ một lẽ nhân danh khác, ấy là tính đàn bà. Họ đã gắp gọn ra khỏi trái tim người phụ nữ trẻ ấy khát vọng tình yêu, cái mà con người cần hơn mọi thứ, vì từ đó mà có tất cả”. Đầu thế kỉ XXI, vượt lên định kiến, văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 không chỉ là diễn ngôn của giới mà trở thành những diễn ngôn mang ý thức nữ quyền – hiện sinh. Theo Soeren Kierkegaard – ông tổ sáng lập chủ nghĩa hiện sinh “Hiện sinh, là bước ra khỏi phòng tối, là không chấp thuận cái kín cổng cao tường, là chối từ cái im lìm, cái bất động của cái gì đã đạt, đã xong, đã rồi, đã đủ… Không. Sống là còn đòi hỏi thêm… thêm… Thế còn chưa đủ. Thế vẫn chưa vừa. Hôm nay phải khác hôm qua. Ngày sau không thể nào lập y như bữa trước”[7]. Không chấp thuận cái kín cổng cao tường… nhiều nhà văn đã lên tiếng bênh vực cho giới nữ, kể cả “nổi loạn tính dục” để khẳng định vị thế. Nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ “luôn muốn một cái gì như gió bão chứ không đủ sức chịu đựng và chờ đợi sự thấm lâu của mưa ngâu” Người xưa; “Tôi cóc cần sống vì ai. Tôi phải vì tôi bởi cũng có ai nghĩ đến tôi đâu” Thiếu phụ chưa chồng. Tính dục là nhu cầu, là đời sống của nữ giới, là tự do cá nhân. Khẳng định nhân vị trong đời sống tính dục trở thành biểu hiện rõ nhất của ý thức nữ quyền hiện sinh, bên cạnh những giải thiêng đạo đức, truyền thống,… từng xuất hiện trong văn xuôi nữ giai đoạn trước. Với nhiều truyện ngắn I am đàn bà, Gà ấp bóng… và nhất là với hàng loạt tiểu thuyết tấn công mạnh mẽ vào ý thức hệ nam quyền Xuân Từ Chiều, Trò chơi hủy diệt cảm xúc,…, Y Ban vẫn luôn là nhà văn sôi sục ý thức nữ quyền hơn cả. Tiêu đề truyện, phát ngôn ngắn gọn của một nhân vật nữ trong truyện ngắn Y Ban “I am đàn bà”, chính là lời xác tín nhân vị đàn bà dẫu từ góc khuất bản năng giới. Được viết bằng ngôn ngữ thân thể, vấn đề tính dục trong tiểu thuyết nữ có khi còn mạnh mẽ, bạo liệt hơn so với tiểu thuyết của nhà văn nam giới. Những năm 60 của thế kỉ XX, trong một bộ phận văn học miền Nam, Nguyễn Thị Hoàng khá bạo liệt khi để nhân vật nữ chiêm ngưỡng thân thể đàn ông và khơi lên những cồn cào, rạo rực bản năng “Trâm nhìn khoảng cườm chân trắng nõn của Minh hé lên giữa ống quần và tất đen”; “chiếc áo len xanh ngắn rướn lên để hở một khoảng da bụng trắng muốt” Vòng tay học trò. Thuộc thế hệ khác, trong bối cảnh xã hội khác, nhiều nhà văn nữ thế hệ sau 1975 đã thay đổi những cái nhìn duy dương vật vốn lấy nam giới làm trung tâm. “Tôi nằm phơi dưới cơn mưa, đồng loã với đất trời trêu ngươi bản lĩnh chuyên chính của Tăng…”; “Tôi ngủ trên cỏ, trần truồng, thích thú …”, “Cười nhạo sự thánh thiện. Mơn trớn và giục giã…” Trong nước giá lạnh – Võ Thị Xuân Hà. Với cảm thức hiện sinh, các nhà văn nữ đã ý thức khắc họa một kiểu nhân vật nữ lạc lõng, xa lạ giữa một thế-giới-vắng, thế giới phi lí. Trong các không gian rỗng, nhân vật nữ thường rơi vào tâm trạng cô đơn, chông chênh trong trạng thái vừa muốn kết nối vừa tách rời cuộc sống. “Bước qua mỗi ngày sống, người ta tiến gần đến với cái chết của mình hơn” M. Heidegger. Lo âu, thiếu vắng, cái chết trở thành phổ biến trong nhiều tác phẩm. Những cái chết phi lí trong một thế giới vô cảm Thành phố đi vắng – Nguyễn Thị Thu Huệ. Những cái chết được lựa chọn sau những phút giây truy tìm bản thể, trả lời/ không thể trả lời được câu hỏi về sự hiện tồn “Tôi là ai?” tiểu thuyết Đoàn Minh Phượng. Những cái chết tất yếu sau nỗi đau phải sống tiểu thuyết Thuận,… Như vậy, ngoài ý thức về bản năng tính dục từ góc nhìn giới, ý thức về bản năng chết “có chức năng đưa tất cả những gì ở trạng thái sống động về trạng thái bất động”[8] cũng xuất hiện trong sáng tác của nhiều nhà văn nữ. Kết luận Văn học sau đổi mới đã đi được một chặng đường 30 năm. Các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 cũng đã có thâm niên sáng tác từ 20 đến 30 năm và có thể còn dài hơn nữa Nhiều tác giả vẫn đang ở giai đoạn sung sức, bút lực dồi dào, hứa hẹn sẽ tiếp tục đem đến những tác phẩm mới có giá trị. 30 năm trong tiến trình vận động của văn học chỉ là một giai đoạn ngắn, nhưng sự nghiệp 20, 30 năm sáng tác với nhiều tác giả là một sự nghiệp đáng tự hào. Theo quy luật sàng lọc khắc nghiệt của thời gian, một vài thập kỉ, một vài thế kỉ nhiều khi cũng chỉ còn lại một vài tên tuổi. Song cũng theo quy luật về sự “trỗi dậy”, “bừng nở” trong các giai đoạn văn học chuyển đổi, bước sang một trang mới, có những giai đoạn văn học ngắn lại đem đến những bước tiến dài. 30 năm văn học đổi mới với sự đóng góp không thể phủ nhận của các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 là một giai đoạn như thế. Các nhà văn nữ đã cùng nhau làm nên một dòng văn học nữ giàu bản sắc, tiếp tục cất lên tiếng nói của nữ nhân Việt Nam. Tiếng nói nữ giới ấy không còn là những tiếng nói cá nhân, nhỏ lẻ như những thời kì, những giai đoạn văn học trước. Tiếng nói phụ nữ trong văn xuôi 30 năm đổi mới đã là tiếng nói chung của giới nữ. Nhờ sự tập hợp đông đảo ấy, các nhà văn nữ thế hệ sau 1975 đã không chỉ khẳng định ý thức giới tính mà còn tạo nên một diễn ngôn của giới mang đậm âm hưởng nữ quyền. Văn học nữ nhờ đó không còn là một bộ phận, một khu vực văn học “ngoại biên” của nền văn học chính thống. Văn học, văn xuôi nữ trở thành một bộ phận không thể chia cắt, tách rời của nền văn học đương đại. Diện mạo của văn học Việt Nam đương đại cũng sẽ khuyết thiếu, bất thành hình nếu không tính đến sự góp phần của văn xuôi nữ, đặc biệt là văn xuôi của các nữ nhà văn thế hệ sau 1975. PGS-TS THÁI PHAN VÀNG ANH ____________ [1] Võ Thị Xuân HàVăn trẻ – bình tĩnh và vững tâm, tham luận tại Tọa đàm giao lưu nhà văn trẻ trong khuôn khổ Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam 2010. Nguồn [2] Ý kiến phát biểu tại Hội thảo về bộ sách “Phái đẹp – Cuộc đời & Cây bút”, Nguồn [3] Y Ban Hãy lắng nghe tác phẩm của nhà văn nữ’, Nguồn [4] Dẫn theo Nguyễn Tấn Hùng “Tư tưởng của Simone de Beauvoir về vấn đề nữ quyền trong tác phẩm Giới tính thứ hai”, Nguồn [5] Michel Foucault “Lịch sử tính dục Chương năm Nữ giới” Khổng Đức dịch. Nguồn [6] Dẫn theo Nguyễn Tấn Hùng “Tư tưởng của Simone de Beauvoir về vấn đề nữ quyền trong tác phẩm Giới tính thứ hai”, Tlđd. [7] Dẫn theo Bùi Giáng “Soeren Kierkegaard và cơ sở chủ nghĩa hiện sinh”, Tư tưởng hiện đại, NXB Văn hóa Sài Gòn, 2008. [8] Sigmund Freud “Cái tôi và cái nó” Trần Thị Mận dịch với sự giúp đỡ của Jean – Noel Cristine, NXB Tri thức, H., 2015, Xem thêm Truyện ngắn Nguyễn Thế Hùng Tiếng đêm Tọa đàm “Sài Gòn trong tạp văn” Thôi đi những chuyện tào lao Nhà thơ Phan Hoàng Thi ca là cầu nối quyến rũ và thiêng liêng Giáo sư Nguyễn Đình Tứ – Một nhân cách và tài năng khoa học hiếm có A. MỞ ĐẦUCác vấn đề của đời sống đã đi vào văn học từ những giai đoạn trước năm1975 và giai đoạn sau năm 1975 tiếp tục kế thừa và phát triển “hiện thực nào vănhọc ấy”. Nếu như trước những năm 1975 văn học là hiện thực của chiến tranh thìsau những năm 1975 không còn chiến tranh, cuộc sống thay đổi vì thế đề tài trongvăn học cũng thay đổi, cuộc sống trở về với những gì bình thường vốn có của vì thế văn học cũng trở về với cuộc sống hòa bình, cùng nhau xây dựng đấtnước. Với cuộc sống hòa bình đòi hỏi các nhà văn phải tiếp cận và khám phá hiệnthực cuộc sống một cách nhân bản với tất cả sự phức tạp vốn có của nó. Trong đóNguyễn Minh Châu thuộc tốp người đi đầu mạnh dạn nhưng lặng lẽ thay đổi tất cảcách nhìn của mình, tự tìm cách đổi mới sáng tác của Minh Châu được mệnh danh là “một trong số những người mởđường tinh anh và tài năng nhất” của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sáng tácở rất nhiều thể loại Tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn tuy nhiên ở giai đoạn sau1975 truyện ngắn của ông là đặc sắc hơn cả với đề tài thế sự. Ông đã có một loạtcác tập truyện ngắn như “Bến quê” 1980, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốchành” 1983, “Chiếc thuyền ngoài xa”… tất cả đã làm lên tên tuổi của NguyễnMinh Châu những năm đổi NỘI DUNGI. Những vấn đề lý Đề tài thế niệm đề tài Là khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêutả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan củanội dung tác phẩm. [110]Khái niệm thế sự Là khái niệm để chỉ những sự việc diễn ra trong cuộc sốnghàng tài thế sự Là mảng đề tài nói về những sự việc diễn ra trong cuộc sốngđời giống như thời kỳ sau hòa bình 1954 sau khi giải phóng hoàn toàn miềnNam thống nhất đất nước 1975 một thời kỳ mới đã mở ra trong đời sống xã hộiViệt Nam độc lập – thống nhất – hòa bình. Vượt qua giai đoạn quán tính 19751985 văn học đang tạo đà phát triển mới. Không chỉ phát triển theo những quy luậtnội tại vốn có của bản thân, văn học giờ đây đã nhanh nhạy trước yêu cầu của cuộcsống, tiếp xúc chủ động, mạnh mẽ với các yếu tố ngoại sinh. Sự tiếp xúc đa danghơn trong môi trường văn hóa cởi mở và hội nhập đã làm thay đổi thị hiểu thẩm mỹcủa người đọc và người cầm bút, thúc đẩy quá trình cách tân hiện đại hóa văn năm 1975 đất nước ta bước chân ra khỏi chiến tranh ác liệt và bắt tay xây dựngcuộc sống hòa bình, chính vì vậy ít xuất hiện những tác phẩm viết về chiến tranhthay vào đó đề tài thế sự đã khẳng định được vị thế của mình. Một cuộc sống mớivới biết bao điều mới mẻ, bao nhiêu mối quan hệ phức Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 văn học trở về với cuộc sống đời thường, không còn những tiểuthuyết chiến tranh ác liệt, những hi sinh mất mát nữa. Chính vì vậy văn học phải cósự thay đổi cho phù hợp với đời sống và Nguyễn Minh Châu thuộc lớp người điđầu trong việc đổi mới sáng tác. Ông đã gặt hái được rất nhiều thành công trong đóbao gồm cả thể loại truyện một thời gian ngắn ông đã sáng tác được một loạt các tập truyện ngắn nhưBến quê 1980, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành 1983, Chiếc thuyềnngoài xa 1983, Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp, Hương và Phai, Khách ở quê ra,Phiên Chợ Giát, Bức tranh…II. Đề tài thế sự trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau cuộc sống thời bình, đất nước, con người bước vào thời kỳ đổi mớivới muôn mặt đời thường, các quan hệ thế sự của cuộc sống riêng tư. Với sự mẫncảm của mình, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu ngòi bút vào những vấn đề của đề tài thế sự, Nguyễn Minh Châu chỉ viết những câu chuyện bình thườngtrong cuộc sống nhưng qua đó là những bài học vô cùng sâu sắc đối với độc giả.“Sắm vai” là truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật chínhtrong câu chuyện là anh T. T có thói quen thức dậy lúc hai, ba giờ sáng và ngồi làmviệc đến tận trưa mới đi ăn cho dù trong lúc ấy có hàng trăm con người dậy hối hảăn sáng, tập thể dục, chải tóc. Nhưng đó chỉ là quá khứ còn hiện tại thì khác hoàntoàn. Vì chiều theo cô vợ xinh đẹp, trẻ trung mà đã sẵn sang từ bỏ cả nếp sống quenthuộc. T đã thay đổi thói quen ấy, anh cũng ngủ đến tận 5 giờ sáng, sau đó tập thểdục đến lúc mọi người ăn sáng anh cũng ăn. Anh đi lấy xe đạp về cho vợ, lau chùixe, rồi mấy hôm sau thay hàm răng giả, nhuộm tóc…Vợ anh ở nước ngoài về anhphải chiều vợ với những cái bắt tay kiểu cách, học nhảy, nịnh vợ… Không chỉ đánhmất thói quen, đánh mất bản thân và T còn từ bỏ cả sáng tạo. Qua đó Nguyễn MinhChâu muốn cảnh tỉnh con người trước lối sống tiêu dung phàm tục để rồi đánh mấtcả bản trong truyện ngắn “Đứa ăn ắp”, câu chuyện xoay quanh nhân vật chínhlà Thoan. Thoan vợ của Khánh, cô làm cấp dưỡng và hai người sống trong khu tậpthể cùng với những gia đình khác. Một lần có một người đàn bà trong khu tập thểbị mất hai thước vải hoa rất đẹp phơi ngoài dây, hai ba ngày tìm khắp xó xỉnh màkhông thấy rồi thấy nó ở đáy rương nhà Thoan. Trước đó mọi người cũng có đôilần bị mất cắp và tưởng chừng như những lần đó đều do Thoan lấy cả. Từ đó tưởnglà hết mất cắp nhưng lâu lâu lại xảy ra cắp vặt và họ nghĩ chẳng ai khác ngoàiThoan “lại chỉ có con Thoan chứ không có ai vào đây?”. Cuối tháng 11 có một đợtbiên chế rút gọn người trong cơ quan và quyết định trả cô cấp dưỡng Thoan về trênnhà quê sản xuất. Thoan đang có bầu sắp sinh nên chồng cô muốn xin cho cô nánlại một thời gian đợi sinh xong thì về vì ở quê quá xa bệnh viện. Nhưng nhữngngười đàn bà trong khu tập thể la ó, kêu ca như phải chịu đựng một thứ tai họa. Rồibao nhiêu lời chửi mắng, nguyền rủa Thoan vì vậy chồng cô quyết định đưa cô vềquê. Đến kỳ sinh nở vì ở xa bệnh viên nên cô bị băng huyết và chuyện là tội lỗi về đạo đức trước một người phụ nữ bị chết khi sinh màngười ta đã vu oan, hãm hại đơn giản như thể không chủ tâm, cố ý. Chính thái độthờ ơ vô trách nhiệm với những người cùng sống đã gây ra hậu quả nguy một loạt truyện ngắn về đề tài thế sự sau 1975, Nguyễn Minh Châu đãlàm nổi bật lên sự tự nhận thức của con người. Người họa sỹ trong “Bức tranh” vìtự ái nghề nghiệp mà từ chối vẽ bức tranh chân dung cho người chiến sỹ để anh gửicho mẹ để mẹ yên lòng. Sau đó chính người chiến sỹ ấy đã giúp người họa sỹ vượtqua dòng lũ cuối cùng người họa sỹ cũng chịu vẽ bức chân dung và hứa mang đưađến tận nơi cho bà mẹ. Bao nhiêu bức tranh họa sỹ mất công vẽ thì không đoạt giảingược lại bức tranh chân dung người lính đoạt giải trong cuộc triển lãm và ngườinghệ sỹ năm nào đã quên đi mất lời hứa của mình. Ông đem bức tranh đi triển lãmvà trở thành người nổi tiếng. Tình cờ người họa sỹ gặp lại người chiến sỹ trong thờibình làm nghề cắt tóc và bà mẹ mù vì khóc con quá nhiều. Lương tâm người họa sỹhết sức dằn vặt còn người chiến sỹ thì thản nhiên làm công việc cắt tóc của mìnhnhư không hề nhận ra người năm xưa. Người họa sỹ đã suy nghĩ về chính mình đểphản diện bản thân mình để ánh sáng, con người được thắp lên từ sự chân thành, đểcái xấu, cái thấp hèn được phơi bày trước lương tâm nghiêm minh phán đề trách nhiệm đạo đức trước những người lính của cuộc chiến tranhvừa qua được Nguyễn Minh Châu viết “rất kỹ” trong truyện ngắn Bức tranh đượcviết từ 1976 nhưng đến1982 mới công bố được rất đặc sắc… Bức tranh chưa phảilà kiệt tác của Nguyễn Minh Châu nhưng đó là truyện ngắn bản lề báo hiệu mộtbước chuyển mới trong sáng tạo văn học, dự báo một quan niệm, một bút pháphoàn toàn mới. Trong Bức tranh, không có con người “lý tưởng hóa” mà đó là conngười đa nhân cách Có cả cao đẹp lẫn thấp hèn. Từ những dằn vặt, đối chứng củanhân vật người họa sỹ, câu hỏi lớn - nhức nhối đặt ra cần được trả lời ngay trongtác phẩm là Chúng ta không thể vì cái danh hiệu vinh quang của cộng đồng dântộc mà bỏ qua số phận cá nhân. Cái nhìn của nhà văn đã thay đổi theo hướng nhìnthẳng vào bản chất của hiện thực Chiến tranh không chỉ là ánh hào quang của Chủnghĩa Anh hùng cách mạng mà còn có cả mất mát, đớn đau, giả dối; Chiến tranhcòn làm “cho người ta hư đi hơn là làm người ta tốt hơn”; con người cũng khôngcòn lấp lánh vẻ đẹp thiên thần mà hội tụ cả những ham muốn tầm thường, thấp liền sau Bức tranh là Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành 1983 những vấn đề của “hậu chiến” được Nguyễn Minh Châu suy nghĩ nghiêm túc. Hoặccó thể nói, sau âm hưởng sử thi- anh hùng ca là thứ âm hưởng khác dữ dội hơn,khốc liệt hơn trong các truyện ngắn như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàutốc hành... Đó là âm hưởng của một nỗi đau không thể nói thành lời trước nhữngmất mát mà chiến tranh gây ra cho dân tộc nói chung, cho mỗi con người cụ thể nóiriêng ...Truyện ngắn Bức tranh có lẽ là điểm đánh dấu rất đáng kể cho một hướngtìm tòi của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên ngay ở đầu truyện, nhân vật chính đãgọi câu chuyện của mình là “những lời tự thú”. Có thể gọi đây là truyện ngắn tựthú, là truyện tự ý thức về đạo đức. Đọc truyện, ta sẽ ngập dần vào “cảm giác phạmtội” của nhân vật, ngập dần vào những day dứt như là tự hành hạ mình của ngườiđó. Anh ta, nhân vật họa sĩ có tiếng ấy, không phải là người thất bại, trái lại, làngười thành đạt trong đời. Cái tình thế đã thức dậy ở anh cảm giác có tội, thật ra,cũng không mấy hiển nhiên Chuyện bà mẹ người lính bị mù vì tưởng con trai hysinh và chuyện người họa sĩ quên lời hứa, đã không đem bức tranh hoặc tới thăm bàcụ, báo tin con cụ còn sống − không hẳn là hai việc có quan hệ nhân quả tất yếuhoặc chỉ có vẻ là nhân quả tất yếu trong cách suy nghĩ của nhân vật bây giờ.Nhưng đây chính là nét vốn có của các chuyện tự thú về đạo đức Mức độ tội trạngthực tế càng mơ hồ, càng ít xác định bao nhiêu thì mức độ tự ý thức về tội lỗi củamình ở con người kia càng phải mạnh bấy nhiêu. Vấn đề là anh ta tự thấy mình cótội, tự thấy mình phải chịu trách nhiệm về tai họa của người khác chứ không phải làthật ra anh ta có tội hay không, hoặc mức độ nặng nhẹ ra sao. Một người thànhcông trong đời bỗng thấy mình có tội lỗi gì đấy với ai đấy, ít nhất cũng có nghĩa làanh ta thấy mình chưa hoàn thiện. Và cũng có nghĩa là anh ta có khát vọng tự hoànthiện. Phương diện tích cực, đáng khích lệ của nhân vật là ở đấy. Sức tác động vàosự tự ý thức ở mỗi người đọc truyện sẽ từ đấy mà ra. Những truyện loại này củaNguyễn Minh Châu không hấp dẫn người đọc ở cốt truyện gay cấn hay chi tiết đặcsắc. Nó hấp dẫn người ta chủ yếu bằng độ căng của những tấn kịch nội tâm, độcăng của những thao thức dằn vặt trong bề sâu ý thức nhân vật. Khá gần gũivới Bức tranh về mặt này là Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Câu chuyệncủa nữ nhân vật chính − quân y sĩ Quỳ − có thể gọi là lịch sử một tâm hồn. Nhưng,với tất cả tính chất riêng tư của con người này, ta vẫn thấy đấy là một tâm hồnmang “hệ số chung” nhiều hơn là một ngoại lệ. Sẽ không thấy được cái “hệ sốchung” ấy nếu tìm nó qua sự đại diện về thành phần, hoặc qua mức độ phổ biến củakiểu người, kiểu tâm trạng mà các nhân vật của Nguyễn Minh Châu có thể đại diện.“Hệ số chung” ấy, theo tôi là ở tính chất khá “tầm cỡ” của những tình thế xung độtnội tâm mà rõ ràng là nhà văn có dụng ý nhấn mạnh. Nếu nhìn nhận những trườnghợp của Quỳ, của anh họa sĩ như là những trường hợp thuần túy cá biệt, thì dễ chođó là cường điệu, là không “tự nhiên”, không “giống” như thật… Nhưng như thếthì sẽ là không hiểu tác giả, và không hiểu nghệ thuật. Tôi sẽ không cố sức thuyếtphục bạn đọc bằng những trích dẫn cho thấy rằng trong quan niệm mô tả nghệ thuậtcủa phần đông các nghệ sĩ lớn của thế kỷ XX, thì “đời sống đích thực − là đời sốngnội tâm” Romain Roland “lịch sử đích thực − là lịch sử cá nhân” rằngchính quan niệm như vậy đã làm cho họ không hề lo sợ thu hẹp sức khái quát thờiđại khi tập trung sự mô tả vào một mảnh đất nhỏ hơn một con tem là thế giới bêntrong một con người. Tôi chỉ lưu ý là ở văn xuôi Nguyễn Minh Châu, trong giaiđoạn sáng tác mới đây của ông, nhất là ở thể truyện ngắn, nhà văn như đang cố sứcchuyển những tương quan lớn của đời sống bên ngoài vào đời sống bên trong củamột vài con người cụ thể. Và đến lượt nó, cái “quy mô bên trong” đó của nhân vật,dẫu có hơi khác thường, ít “tự nhiên”, nhưng lại cho thấy tầm vóc không nhỏ bécủa con người ở thời đánh giặc hôm qua cũng như ở thời đấu tranh xây dựng hômnay. Cho đến những sáng tác gần đây nhất, Nguyễn Minh Châu cũng chưa bao giờtỏ ra là thích thú miêu tả và miêu tả thành công phương diện gọi là “cái riêng nhỏbé” thực sự của con người thế tục. Và cái điều vừa là ưu điểm vừa là nhược điểmnày ở ngòi bút ông chỉ “tố cáo” một điều Trước sau ôngvẫn là nhà văn của nhữngtình cảm cao cả − nếu không phải cái cao thượng của những phẩm chất người thìcũng là cái cao lớn, “tầm cỡ” của những tình thế, những vấn đề con người. Tôi nghĩsẽ là không quá đáng lắm nếu nói rằng có thể tìm thấy dấu vết “lịch sử tâm hồn”của một hoặc một số thế hệ người đương thời trong cái “lịch sử tâm hồn” của cô ysĩ Quỳ, “người đàn bà quá ham hố”, được trời phú cho khá nhiều ưu thế giới tínhvà cũng có một đời sống tình cảm khác thường. Cô yêu như thể bị “chinh phục” bởitài năng quân sự xuất chúng của một trung đoàn trưởng, yêu từ “tầm xa”, đầyngưỡng mộ, thán phục, nhưng không thể giữ nguyên được tình cảm ấy khi ở gần,khi thấy anh cũng bình thường, tầm thường như những người khác, “cũng mừng rỡhý hửng khi được thăng cấp… cũng chăn một đàn gà riêng, cũng đánh một cái quầnxà lỏn đi phát rẫy, cũng yêu người này, nói xấu sau lưng người kia”… và hiện thâncủa sự bình thường ấy là bàn tay ra mồ hôi “lúc nào cũng dấp dính” khiến cô khóchịu… Rồi con người ấy hy sinh trong một trận đánh ác liệt. Trong nỗi đau, cônhận ra lầm lẫn của mình “Tôi đã không coi họ là những con người đang sống giữacuộc đời mà lại đòi hỏi nơi họ một thánh nhân. Tôi đã đi tìm cái tuyệt đối khôngbao giờ có”. Nhưng sai lầm này chưa qua hết thì một sai lầm nữa lại lộ ra “Tôiđinh ninh rằng tình yêu của tôi có thể cứu sống được hết tất cả mọi người”. Ấy thếmà, trên thực tế “tình yêu mà tôi tưởng hết sức nhiệm mầu, chẳng cứu sống đượcmột ai cả”. Cho đến quãng đời sau chiến tranh, cô vẫn sống trong quan niệm ấy, vàthật ra, cái tình yêu có sức cứu vớt ấy không phải là không có hiệu quả, khi cô dànhnó cho bạn của người liệt sĩ năm xưa, đưa anh ta ra khỏi nhà tù, trở về vị trí củangười sáng tạo khoa học. Cái lịch trình của một tâm hồn muốn tìm thấy một thánhnhân ở người mình yêu đây là điều nhân vật tự cảm thấy, tự phê phán và muốn tựmình làm một thánh nhân trong tình yêu điều thứ hai này là do người kểchuyện phát hiện và “phê bình” nhân vật Quỳ, − rốt cuộc, nữ nhân vật vẫn chưavượt qua được. Vả chăng, phương cách đúng đắn không phải là dứt bỏ toàn bộquan niệm ấy. Vấn đề là ý thức được tính chất phiến diện cực đoan của quan niệm“đi tìm tuyệt đối” ấy. Yếu tố tự phê phán bộc lộ rõ trong lời nhân vật và lời ngườikể chuyện chính là thực hiện chức năng ý thức và tự ý thức. Cái gọi là “lầm lẫn”của Quỳ, có khi là lầm lẫn thực sự, có khi lại bao hàm một lẽ sống đáng trọng. Nóchưa hiển nhiên cứu sống một ai, cũng chưa hiển nhiên “giết chết” một ai, nhưng,cũng tựa như “cảm giác phạm tội” của người họa sĩ trong Bức tranh, chính vìnhững hậu quả không có gì là hiển nhiên nên sự tự ý thức của nhân vật càng rõ đề là ý thức cho được cái phần “sống ngoài ý thức, không hoàn toàn làm chủđược mình” để chế ngự nó, hoặc nói cách khác là ý thức cho được tương quan giữaý chí chủ quan và thực tế khách quan. Câu chuyện lịch sử một tâm hồn, như vậy,trở thành một câu chuyện triết lý về cách nhận thức, về quan niệm sống. Ý nghĩa ẩndụ của nó là khá rõ. Hơn nữa, chỉ khi thừa nhận bình diện ẩn dụ của câu chuyện, tamới có thể chấp nhận những gì ít nhiều cường điệu nếu nhìn thuần túy theo yêu cầumiêu tả “giống” như thực thông thường. Lại cũng phải lưu ý điều mà nhiều nhànghiên cứu đã nhận thấy ở văn học thế kỷ XX, loại truyện ngụ ý, ngụ ngôn, triếtlý, đã không còn chỉ là một thứ con rối cho các luận đề. Ngược lại, loại truyện nàyđã có dạng sinh hoạt tả thực rõ rệt, nhân vật đã được tạo dựng như một tính bình diện ngụ ý triết lý luôn luôn chìm khuất sau bình diện sinh hoạt tả ta thấy điều này ở truyện của Camus, Kafka, Golding hoặc trong vănhọc Xô-viết, ở Bykov, Aitmatov, Dumbatze Trong văn xuôi ở ta gần đây,chúng ta cũng thấy đặc điểm này ở các truyện của Nguyễn Minh Châu, NguyễnKhải, Nguyễn Kiên, Dìm sâu các ẩn ý triết lý vào mạch truyện “giống thực”là cách truyền sự sống cho ý tưởng ấy, tuy nhiên, mặt khác, người viết loại truyệnnày không thể không tìm cách cho ẩn ý kia thỉnh thoảng lại lộ ra, nhô ra. Do vậymà thường có những không khí khác thường cho nhân vật bộc lộ tâm sự, tâm trạng,giống như bị phục rượu mà phải nói to lên những ý nghĩ bao quát hơn, trừu tượnghơn so với lời nói của họ trong các cảnh ngộ thông Khúng trong “Phiên chợ Giáp” đi bán bò già cho người ta làm thịt ở chợCầu Giáp, lão đi từ 3 giờ đến 7 giờ, quãng đương đi ấy hết 5h đồng hồ. Song cuộchành trình đó lại là những hồi tưởng về quãng đời trước kia, những đau khổ nhọcnhằn, những phi lý đọa đầy, lừa đảo, cái sống và cái chết và cả những giọt nướcmắt. Nguyễn Minh Châu đã dựng lên hình tượng người nông dân vừa là bò khoangvừa là lão Khúng, hai mà một, một mà hai. Bò khoang là hiện thân của sức chịuđựng bền bỉ làm việc nhẫn nại “suốt đời nai lung ra làm kéo cày”. Đối lập với hiệnthực cuộc sống khắc nghiệt là mơ ước giải thoát, thoát khỏi cuộc sống lam lũ cơcực không phải kéo cày, kéo xe và được ăn uống thỏa thuê. Chính vì thế lão Khúngđã giải thoát cho con bò khoang không chỉ chứng tỏ tình thương, lòng tốt mà còncó ý nghĩa là sự tự giải thoát. Nhưng đến kết truyện, từ rừng sâu con bò lại quay trởlại với chủ qua đó ta thấy sự quẩn quanh của số kiếp bò khoang là sự thất bại củaảo tưởng tự một số tác phẩm Nguyễn Minh Châu đã phơi bày những mặt trái của xãhội từ đó đưa ra những bài học đúng đắn trong cách nhìn nhận cuộc sống cũng nhưđánh giá con người.“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu. Theo yêu cầu của trưởngphòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung cũng là nơianh từng chiến đấu để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày“phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đólà cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưngkhi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chínhchiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa convì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lạitiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh ánĐẩu một người đồng đội cũ của Phùng người đàn bà hàng chài đã đến toà ánhuyện. Tại đây, người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhấtquyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đócũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, ngườinghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền vàbiển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiệnlên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũngthấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm hai phát hiện của nghệ sỹ Phùng với sự đối lập một bên là bức tranhcảnh biển buổi sớm đẹp toàn thiện toàn mỹ với một bên là cuộc sống lam lũ vất vảđặc biệt là nạn bạo lực trong gia đình người đàn bà hang chai, Nguyễn Minh Châuđã đưa ra bài đúng đắn trong cách nhìn nhận cuộc sống. Để đánh giá một sự việc,vấn đề thì phải đi sâu vào bản chất bên trong, không nên đứng từ xa rồi đưa ra nhậnxét. Cũng đừng đồng nhất vẻ đẹp bên ngoài với bản chất bên trong. Với câu chuyệncủa người đang bà hàng chài tại tòa án huyện tác giả đưa ra cái nhìn đa chiều trongnhìn nhận cuộc sống. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà hàng chài bỏ chồng, mụcđích của hai người là tốt tuy nhiên cái nhìn của họ chỉ một chiều, đơn giản. Họ chỉnghĩ đến mực đích duy nhất là giải thoát cho người phụ nữ ấy. Còn ngược lạingười đàn bà hang chai lại suy nghĩ vô cùng sâu sắc. Người phụ nữ ấy không bỏchồng trước hết vì chị biết ơn chồng. Chính người chồng đã lấy chị trong khi tất cảmọi người chê xấu. Chị thấu hiểu chồng và biết bản chất của chồng không phải vũphu mà do hoàn cảnh. Cuối cùng chị lo cho các con, không có bố các con lấy gì ăn,lấy ai dậy bảo, chăm từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình, hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất. Đặc biệt là câu chuyệncủa người đàn bà làng chài ở tòa án huyện. Bề ngoài,đó là một người đàn bà nhẫnnhục,cam chịu,bị chồng thường xuyên hành hạ,đánh đập thật khốn khổ “ba ngàymột trận nhẹ,năm ngày một trận nặng”, nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bóvới lão đàn ông ấy “Con lạy quý tòa.. Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù concũng được,đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thươngvô bờ đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phảicó người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng..phảisống cho con chứ không phải sống cho mình”. Phùng từng là người lính chiến đấugiải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giảiphóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà,Phùng càng thấm thía Không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao ngườiđàn bà vùng biển thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biếtbao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh. Người đàn bà ấythật đáng chia sẻ cảm thông. Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tínhnhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộcsống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thâncủa thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trongmột gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị của Phác, cậubé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng,những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đờinhư vậy?Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo. Những tình huống chứa đầy sựnghịch lí Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tếvẫn có hình ảnh con người. Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thìchính trong đó lại chứa những cái xấu ác. Một người đàn bà bị chồng đánh dã mannhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão. Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộcđời như nói lên một triết lí sâu sắc “Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá. Người nghệ sỹ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều khiphản ánh cuộc sống.”Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng đã tạo ra một điểmnhìn trần thuật sắc sảo. Lời kể trở nên khách quan, chân thật giàu sức thuyết ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người Giọng lão đànông thô bỉ, lời người đàn bà xót xa cam chịu…Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đãgóp phần khắc sâu hơn chủ đề, tư tưởng của tác ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìnnhận cuộc sống và con người Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cáchnhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiệntượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự - triết lý của nhà văn NguyễnMinh Minh Châu còn có tài tạo dựng tình huống truyện để người đọc nhậnthức và khám phá vấn đề mới mẻ trong những tình huống nghịch lý để ta nhận ratriết lý của con người đời “Bến quê” nhân vật Nhĩ là người đã từng đặt chân đến mọi ngóc ngách, đikhắp mọi nơi trên thế giới vậy mà đến cuối đời Nhĩ nhận ra mình chưa từng đặttrên lên bãi bồi bên kia sông, hiện tại Nhĩ không thể nào thực hiện được mơ ước đónữa. Qua nghịch lý ấy nhà văn muốn để cho người đọc suy ngẫm về cuộc sống vàsố phận con người luôn chứa đựng những điều bất thường, những nghịch lý vượtqua ngoài dự định, ước muốn. Cuộc đời con người thường khó tránh khỏi nhữngđiều vòng vèo nhất là khi còn trẻ chỉ khi đã từng trải hoặc ở cảnh ngộ khác thườngnào đó người ta mới nhận thức được những giá trị đích thực của cuộc sống, nhữnggiá trị giản dị mà lại gần gũi quanh ta. Nhưng thường khi nhận thức được điều đócon người thường không còn mấy thời gian và sức lực để đạt tới trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là vẻ đẹp của chiếc thuyền trong buổi sáng mờsương nhưng sau cảnh đẹp đó là cuộc sống của con người cơ cực. Đó là người đànbà bị chồng đánh, đứa con trai vì thương mẹ nên đánh lại cha. Cái đẹp của nghệthuật không chỉ là cái đẹp thuần túy mà còn là cái đẹp gắn với hiện thực, gắn vớicuộc sống của con đó ta thấy Nguyễn Minh Châu là một nhà văn với cái nhìn đa diện, nhiều chiềuvề cuộc sống cũng như cuộc đời của mỗi con người ở nhiều phương diện những truyện ngắn viết về đề tài thế sự, Nguyễn Minh Châu thể hiệngiọng điệu đa thanh cùng với đó là những hình ảnh biểu tượng đa nghĩa. Nếu nhưtrước năm 1975 giọng điệu trong văn học chủ yếu là giọng điệu ngợi ca, thì saunăm 1975 giọng điệu trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu phức tạp hơn, lúcchân tình, lúc suồng sã khi lại hài hước, kín đáo. Ông đã sáng tạo ra những biểutượng đa nghĩa như “Chiếc thuyền ngoài xa”.Qua đề tài thế sự trong một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ta thấyquan niệm về con người của ông cũng có sự thay đổi. Con người hoàn hảo, conngười lý tưởng không còn nữa mà thay vào đó là cái nhìn nhiều chiều về con dụ nhân vật lão Khúng, nhân vật Quỳ, nhân vật người họa sỹ…C. KẾT LUẬNĐúng với mệnh danh là “một trong số những người mở đường tinh anh và tàinăng nhất” của nền văn học Việt Nam hiện đại. Qua những tác phẩm của mình saunăm 1975, Nguyễn Minh Châu đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn đa chiều vềcuộc sống con người sau chiến tranh. Đó là bức tranh cuộc đời nhiều màu, nhiềusắc thái, nhiều gam màu tối sáng khác nhau. Những câu chuyện rất bình thườngnhưng ẩn sau đó là những bài học nhân sinh sâu sắc. Những nghịch lý của cuộc đời,những góc khuất của nó, những số phận con người hay những chiêm nghiệm củanhân vật cũng chính là chiêm nghiệm của tác giả. Tất cả đã được Nguyễn MinhChâu xây dựng trong những tác phẩm viết về đề tài thế sự sau năm 1975 – Mộtbước chuyển mình của thời liệu tham Hồng Mây và cộng sự, 2004. Từ điển Tiếng Việt. Nhà xuất bản thống Lê Bá Hán và cộng sự, 2009. Từ điển thuật ngữ Văn học. Nhà xuất bản Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành tập truyện, NXB Tác phẩm mới, 19835. Bến quê tập truyện, NXB Tác phẩm mới, Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân, Nguyễn Minh Châu- con người và tácphẩm, NXB Hội Nhà văn, H, Nguyễn Văn Long, Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Támnăm 1945, NXB Đại học sư phạm, Đào Thủy Nguyên chủ biên- Bùi Huy Quảng, Giáo trình Văn học Việt Namhiện đại, NXB Giáo dục Việt Nam. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2LĂNG THỊ THU LOANĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT KẾT CẤUTRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂUSAU 1975LUẬN VĂN THẠC SĨNGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAMHÀ NỘI, 2016BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2LĂNG THỊ THU LOANĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT KẾT CẤUTRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂUSAU 1975Chuyên ngành Lý luận văn họcMã số 60 22 01 20LUẬN VĂN THẠC SĨNGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAMNgƣời hƣớng dẫn khoa học PGS. TS. ĐOÀN ĐỨC PHƢƠNGHÀ NỘI, 2016LỜI CẢM ƠNĐể hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơnsâu sắc tới thầy giáo Đoàn Đức Phương, người đã tận tình hướngdẫn, giúp đỡ và động viên tôi trong suốt thời gian thực hiện đề xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới các thầy, cô giáo trong tổ Lý luậnvăn học, Phòng Sau Đại học - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điềukiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian của khóa gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình và bạn bè thân thiết đã luônquan tâm, chia sẻ với tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên Nội, ngày 6 tháng 7 năm 2016Học viênLăng Thị Thu LoanLỜI CAM ĐOANTôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Đoàn Đức Phương. Trong quátrình nghiên cứu, tôi có tìm hiểu và tham khảo kết quả nghiên cứu của các tácgiả đi trước với tấm lòng biết ơn và trân cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận vănnày đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõnguồn Nội, ngày 6 tháng 7 năm 2016Học viênLăng Thị Thu LoanMỤC LỤCMỞ ĐẦU .......................................................................................................... 11. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 12. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 33. Mục đích nghiên cứu ............................................................................... 114. Nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................................. 115. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 116. Phương pháp nghiên cứu......................................................................... 127. Đóng góp của luận văn ............................................................................ 138. Cấu trúc của luận văn .............................................................................. 13NỘI DUNG..................................................................................................... 14Chƣơng 1. KHÁI LUẬN VỀ KẾT CẤU VÀ TRUYỆN NGẮNNGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 ............................................................ Khái luận về kết cấu........................................................................... Khái niệm kết cấu ..................................................................................... Kết cấu truyện ngắn .................................................................................. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ..................................... Quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châu......................................... Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ........................... 21Chƣơng 2. KẾT CẤU VỚI TỔ CHỨC CÁC YẾU TỐ NỘI DUNG ........ Kết cấu với tổ chức hệ thống hình tƣợng nhân vật......................... Khái niệm nhân vật văn học và cách phân loại nhân vật ...................... Khái niệm ............................................................................... Phân loại ................................................................................ Kết cấu nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ..... Miêu tả ngoại hình và hành động .......................................... Biểu hiện nội tâm ................................................................... Sử dụng ngôn ngữ trực tiếp của nhân vật .............................. Kết cấu với tổ chức cốt truyện .......................................................... Khái niệm cốt truyện và cách phân loại cốt truyện................................ Khái niệm ............................................................................... Phân loại ................................................................................ Tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ...... Cốt truyện tâm lý .................................................................... Cốt truyện luận đề .................................................................. Cốt truyện hồi cố .................................................................... 67Chƣơng 3. KẾT CẤU VỚI TỔ CHỨC NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT ..... Kết cấu với tổ chức điểm nhìn trần thuật ........................................ Khái niệm điểm nhìn trần thuật và phân loại điểm nhìn ....................... Khái niệm ............................................................................... Phân loại ................................................................................ Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 … Điểm nhìn bên ngoài .............................................................. Điểm nhìn bên trong .............................................................. Di chuyển và kết hợp điểm nhìn ............................................. Kết cấu với tổ chức tình huống truyện ............................................. Khái niệm tình huống truyện và cách phân loại tình huống ......... Khái niệm ............................................................................... Phân loại ................................................................................ Tình huống truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ... Tình huống tương phản .......................................................... Tình huống nhận thức ............................................................ Tình huống bi kịch................................................................ 102KẾT LUẬN .................................................................................................. 105TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 1091MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tàiSau năm 1975, đất nước ta bước ra khỏi chiến tranh và trở về với “quỹđạo” của cuộc sống hòa bình, công cuộc đổi mới đất nước diễn ra đòi hỏi phảicó sự gắn liền với công cuộc đổi mới trên mặt trận văn hóa và tư tưởng, trongđó có văn học. Tại thời điểm đó, với tư cách là một người nghệ sĩ công dân,nghệ sĩ dấn thân, Nguyễn Minh Châu đã đi từ ý nguyện “canh tân đất nước”đến ý nguyện “canh tân văn học”. Có lẽ chính quá trình chiêm nghiệm cuộcsống và thể nghiệm nghệ thuật ở cả hai quãng thời gian trước và sau 1975 đãtrở thành một yếu tố quan trọng để ông nhìn về một “thời xa vắng”, nhưngkhông phải tìm vào quá khứ để quay lưng với hiện tại mà là để tự nhìn nhậnlại mình, “tự thay máu” chính mình để nhìn rõ tương lai và quan trọng hơnhết, để tìm con đường đổi mới văn học, nói như nhà nghiên cứu và phê bìnhương Trí Nhàn thì đây là một “sự dũng cảm rất điềm đạm” [30, Ôngnổi lên với vai trò và vị trí quan trọng mà nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳngđịnh “Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tàinăng nhất của văn học ta hiện nay” [26, Những sáng tác tiểu thuyết từMiền cháy cho đến Mảnh đất tình yêu đã mang đến một sắc diện mới trongsáng tác của nhà văn, nhưng có thể khẳng định rằng những sáng tác truyệnngắn từ Bức tranh cho đến Phiên chợ Giát mới thực sự là những tìm tòi mới,với những cái nhìn mới về hiện thực và con Nguyễn Minh Châu đã ra đi về miền miên viễn, nhưng sáng táctruyện ngắn sau 1975 của ông vẫn hiện lên như một thanh nam châm đầy malực, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của công chúng bởi những thể nghiệm vàtìm tòi đầy tính sáng tạo trong công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà, trêncả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh những phương diện mà2các tác giả đi trước đã nghiên cứu, chúng tôi đi sâu tìm hiểu về nghệ thuật kếtcấu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975, một yếu tốthuộc về kỹ thuật và thủ pháp sáng tác. Đây sẽ là một minh chứng góp phầnkhẳng định tài năng và sự sáng tạo của nhà văn để tạo nên một tiếng nói riêng,một giọng điệu riêng, một phong cách Nguyễn Minh Châu trên văn đàniệtNam hiện khác, có thể nói kết cấu chính là sự hiện thực hóa, cụ thể hóa ý đồsáng tác của nhà văn thông qua cách thức tổ chức tác phẩm, bởi “trong quátrình quan sát đời sống, tích lũy tài liệu, hình thành ý đồ sáng tác, nhà văn đãbắt đầu vận dụng các nguyên tắc kết cấu để tổ chức nên văn bản tác phẩm”[51, Chất liệu hiện thực thông qua cách bố trí, sắp xếp và tổ chức củakết cấu sẽ hình thành nên hình thức nghệ thuật mang nội dung tự sự cụ thể. Làmột yếu tố thuộc phương diện hình thức, kết cấu giữ vai trò quan trọng trongquá trình thực hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố thuộc phương diện nội có kết cấu mà tác phẩm trở thành một chỉnh thể thống nhất dựa trên mốiliên hệ giữa các yếu tố bên trong nội dung và bên ngoài hình thức với mụcđích sáng tạo của nhà văn. Điều này vừa góp phần biểu hiện thế giới nghệthuật, vừa đem lại tính hiệu quả cao cho sự tập trung chủ đề và sự thống nhấttrong tư tưởng của nhà văn. Từ đó, tác phẩm sẽ trở nên có linh hồn và cóđược một sức sống lâu bền đối với bạn đọc qua nhiều thế hệ. Vì vậy, việcnghiên cứu nghệ thuật kết cấu chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống cácphương tiện tự sự nói chung và truyện ngắn nói ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975 còn được chọngiảng trong chương trình Ngữ văn mới ở các cấp học Bến quê - THCS vàChiếc thuyền ngoài xa - THPT. Vậy nên việc nghiên cứu nghệ thuật kết cấutruyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 ngày càng có ý nghĩa thiết thực đốivới công việc giảng dạy và học tập trong nhà tất cả những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài Đặc sắc nghệ thuậtkết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 cho luận văn của mình. Đâysẽ là cơ hội để người viết tìm hiểu và khẳng định vai trò cũng như nhiệm vụcủa kết cấu đối với việc tổ chức các yếu tố nội dung và tổ chức nghệ thuậttrần thuật, trong những sáng tác truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạnsau 1975 trên tinh thần khoa Lịch sử vấn đềKể từ khi truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập 1960 ra đời, cho đếntác phẩm cuối cùng Phiên chợ Giát 1989 được Nguyễn Minh Châu hoànthành trên giường bệnh, trong suốt quãng thời gian gần 30 năm lao động nghệthuật không mệt mỏi đó, tính cho đến nay, sáng tác của ông luôn nhận đượcsự quan tâm và chú ý của công chúng cùng với nhiều bài viết, chuyên luận vànhững công trình nghiên cứu khoa Nguyễn Minh Châu, con người và tác phẩm Tôn Phương Lan vàLại Nguyên Ân biên soạn, Nguyễn Minh Châu, tài năng và sáng tạo nghệthuật Mai Hương sưu tầm, biên soạn và giới thiệu, Nguyễn Minh Châu vềtác gia và tác phẩm Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn là sự tổnghợp nhiều bài viết của giới nghiên cứu và phê bình trong việc đi sâu tìm hiểucon người và sáng tác của nhà văn trên cả ba mảng tiểu thuyết, truyện ngắnvà tiểu luận phê bình. Trong giới hạn của đề tài nghiên cứu, người viết chỉđiểm qua những ý kiến và bài viết có liên quan đến truyện ngắn của 1975, với việc xây dựng được không khí huyền diệu và hàohùng của thời kháng chiến, đặc biệt là hình tượng người anh hùng, truyệnngắn Nguyễn Minh Châu đã được dư luận chào đón nồng nhiệt. Có thể kể đếnbài viết của những tác giả như Nguyễn Kiên với Đọc Những vùng trời khácnhau của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thanh Hùng với Cái đẹp và cái haycủa Mảnh trăng cuối rừng, Nguyễn Hòa với Cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy,4Nguyễn Thanh Tú với Nghệ thuật kể chuyện trong Mảnh trăng cuối rừng,Nguyễnăn Bính với Vẻ đẹp của nhân vật Nguyệt và nghệ thuật xây dựngnhân vật của Nguyễn Minh Châu,…Sau 1975, hàng loạt truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu lần lượt đượccông bố đã tạo nên sự kiện có tiếng vang trong đời sống văn học. Đáng lưu ýlà cuộc hội thảo Trao đổi về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu những nămgần đây do báoăn Nghệ tổ chức vào tháng 6 năm 1985. Bên cạnh những ýkiến còn tỏ ra băn khoăn và nghi ngờ thì đã có ý kiến nêu cao sự tìm tòi vàđổi mới của nhà văn. Phong Lê cho rằng “Đúng là Nguyễn Minh Châu làngười có giọng điệu riêng, mà nói đúng hơn, anh là người đa giọng điệu. Cáiđa giọng điệu, cái đa thanh của cuộc đời đã vào anh. Tất cả các cung bậc cótrong đời cái cao thượng, cái ti tiện; cả cái bi lẫn cái hài, anh đều đưa vàotruyện” [25, Lê Thành Nghị cho rằng “Tác giả thay đổi “chấtgiọng”, thay đổi góc nhìn phần lớn để truy tìm đến tận cùng những biểu hiệntâm lý phức tạp, tác giả lựa chọn chất châm biếm - trào lộng Bức tranh,Khách ở quê ra,…, nhiều thiên truyện như một giả định, vấn đề được nêu ranhư một luận đề, các chi tiết nhiều khi mang màu sắc minh họa” [25, cuộc hội thảo, giới nghiên cứu và phê bình đã dần đi đến khẳng định quátrình đổi mới tích cực và hiệu quả của Nguyễn Minh Châu. Ngô Thảo với bàiĐọc những tác phẩm mới của Nguyễn Minh Châu, sau khi phân tích Ngườiđàn bà trên chuyến tàu tốc hành, tác giả đã đánh giá cao năng lực của nhàvăn trong việc phân tích và thể hiện những biến động tâm lý khá phức tạp củanhân vật. Bên cạnh đó, tác giả nhận xét “Đưa nhân vật cũng như người đọcđối diện với cuộc sống trần thế, những vấn đề trần thế đang là một xu hướngtrong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu. Cách nhìn ấy làm cho truyện ngắncó chiều sâu, lối nhìn đời có chiều sâu … Hạng, Bức tranh, Đứa ăn cắp,Sắm vai, Giao thừa, và cả Mẹ con chị Hằng, mỗi truyện một vẻ, nhấn về một5phía, nhưng đều có chung âm điệu phê phán khá gay gắt những thói đời, khitác giả thể hiện lại nó một cách khách quan” [25, Trần Đình Sửvới bài viết Bến quê - một phong cách trần thuật giàu chất triết lý đã nhậnxét “Bắt đầu từ truyện ngắn Bức tranh, rồi tập Người đàn bà trên chuyếntàu tốc hành và nay là tập Bến quê, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châuxuất hiện như là một hiện tượng văn học mới, một phong cách trần thuật mới… hướng ngòi bút của anh vào việc phát hiện các hiện tượng đời sống trongchiều sâu triết học và lịch sử, thể hiện nhu cầu chiêm nghiệm, tự đối thoại vớichính mình và với ý thức của mình” [25, Lại Nguyên Ân với bàiSáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu, trên cơ sở nhận xét vềxu hướng triết lý nhận thức của nhà văn, tác giả đã tạm xếp thử các truyện ấyvào một số dạng chính sau “Từ loại truyện “tự thú” mà trung tâm thường làmột nhân vật đang “sám hối”, đang tự phân tích, phê phán bản thân về đạođức, lối sống, nhà văn đã chuyển sang thể nghiệm loại truyện tuy có dạng thức“tự nhiên”, khách quan nhưng phê phán gay gắt những lối sống vô ý thức,vâng theo những chuẩn mực thông tục, không hề lường tới hậu quả, không hềbiết tới thực chất lối sống của mình là gì. Thêm một bước nữa, nhà văn đi tớiloại truyện cũng có dạng khách quan tự nhiên, nhưng không phải để lên án,phê phán đối tượng cụ thể nào mà chủ yếu để nhận thức những tình thế,những khía cạnh trái ngược vốn có trong đời sống con người” [25, ĩnh Cư với bài viết Về những yếu tố tiểu thuyết trong truyện ngắn củaNguyễn Minh Châu đã khẳng định Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát “xuấthiện lối hành văn “giao hưởng” vang vọng dư âm những giọng nói khác nhau… xuất hiện nhân vật tiểu thuyết đích thực - một con người nhiều chiều, mộttính cách vừa mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá biệt vừa tiêu biểu, vừa là sảnphẩm của quá khứ lịch sử tối tăm, vừa tỏa sáng của nhân tính vĩnh hằng củanhững giá trị đạo đức muôn đời, một người nông dân chân lấm tay bùn nhưng6đồng thời lại là một “nhà tư tưởng” có thế giới riêng, có tiếng nói riêng,tiếng nói ấy lan xa khắp nơi trong tác phẩm, hòa điệu và nghịch điệu phứctạp với tiếng nói tác giả” [25, Đỗ Đức Hiểu với bài Đọc Phiên chợGiát của Nguyễn Minh Châu đã khẳng định truyện ngắn “có một tầm cỡ lớn”và đánh giá cao về mặt nghệ thuật như sau “Phiên chợ Giát là một truyệnmở; từ cái lô gích của ngôn ngữ trên bề mặt, truyện đi tới ngôn ngữ thứ hai,ngôn ngữ biểu tượng, xiêu vẹo, những ảo giác, với những cơn sốc, nhữngnghịch lý, tức là một thế giới quyện nhòe của hư và thực, đó là những kí hiệuriêng của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này” [25, Nguyễnăn Hạnh với Nguyễn Minh Châu những năm tám mươi và sự đổi mới cáchnhìn về con người, qua phân tích Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàutốc hành, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, tác giả nhận xét “Khẳng địnhcái đẹp, chất thơ của đời sống, nhưng Nguyễn Minh Châu không thi vị hóacuộc sống, không nhìn cuộc sống một chiều, dễ dãi. Cuối cùng anh hiểu rằngcuộc sống, bao giờ cũng vậy, có cả ánh sáng và bóng tối, có cả dương và âm,rằng bản chất con người hoàn toàn không đơn giản, và mỗi bước đi lên củaxã hội, của cuộc sống cực kì chật vật, mâu thuẫn, đầy thăng trầm và nhiều khirất đau đớn” [25, Kỷ yếu Hội thảo 5 năm ngày mất Nguyễn Minh Châu vào năm1995, giới nghiên cứu và phê bình đã tiếp tục khẳng định tài năng và sự sángtạo của nhà văn. Đinh Trí Dũng với bài viết Nguyễn Minh Châu và sự trăn trởcủa một ngòi bút đầy trách nhiệm đã khẳng định “Nguyễn Minh Châu nhưmột người lính hành quân không mệt mỏi, luôn trăn trở đào sâu vào nhữngtầng vỉa mới của đời sống, phát hiện những kiểu người mới, những giá trịmới. Và giọng văn của Nguyễn Minh Châu cũng có những biến đổi ân tình,sâu sắc, nhiều lúc “đầy trắc ẩn” [25, Nguyễn Trung Hiếu với Trở lạiChuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu” đã nhận xét “Một trong7những cái lạ của Nguyễn Minh Châu là Người đàn bà trên chuyến tàu tốchành. Lạ về nhân vật, lạ về kết cấu và lạ về cả lô gích của chuyện. Nó gâycảm giác nửa tin nửa ngờ, nhưng nó quả có một sức hấp dẫn bàng hoàng”[25, Lê Quang Hưng với bài viết Một hình tượng nông dân điển hìnhtrong sáng tác của Nguyễn Minh Châu về nhân vật lão Khúng trong Khách ởquê ra và Phiên chợ Giát đã nhận xét “Nhân vật lão Khúng là sự trộn lẫnnhững sắc màu thẩm mĩ đối lập một cách độc đáo để tạo nên “con người”này bản năng và lý trí, hoang sơ và lọc lõi, chấp nhận và đấu tranh, đơngiản mà cũng lắm quanh co giằng xé” [25, sản văn học của Nguyễn Minh Châu vẫn không ngừng nhận được sựquan tâm, hưởng ứng của dư luận trong và ngoài nước với nhiều bài viết đượcđăng trên các báo và tạp chí, ngay cả khi đất nước đã bước sang thiên niên kỉmới. với bài Nguyễn Minh Châu và sáng tác của anh đã khẳngđịnh những đóng góp của nhà văn trong việc mở ra cho văn học những cáimới trên phương diện đề tài và hình tượng nhân vật. Dương Thị Thanh Hiênvới Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã phân tích các hình ảnh biểu tượng tạonên chất trữ tình, triết lý cho tác phẩm. Lê Quý Kì với bài viết Nguyễn MinhChâu viết về chiến tranh và sau chiến tranh, qua phân tích hai truyện ngắnCỏ lau và Mùa trái cóc ở miền Nam, tác giả đã khẳng định đóng góp của nhàvăn trong xây dựng nhân vật với những đặc trưng cơ bản của thời đại và sựphức tạp, chứ không phải là sự giản đơn một chiều “Nguyễn Minh Châubuộc nhân vật của ông phải đối mặt với cả quá khứ và hiện tại - một quá khứkhốc liệt, đầy thử thách chưa xa và một hiện tại đầy rối rắm, phức tạp đangphơi ra trước mắt … Phơi bày những góc khuất trong tâm hồn người línhtrong chiến tranh, nhưng không làm lu mờ chiến thắng của họ, trái lại cònlàm sâu sắc thêm, vĩ đại thêm chiến thắng đó … bối cảnh mà các nhân vậtcủa ông hoạt động ở trong đó. Bối cảnh này, dưới con mắt Nguyễn Minh8Châu, thật là ngổn ngang. Ngổn ngang không phải chỉ trên mặt đất, mà ngổnngang chính trong lòng người” [26, các bài viết được in tổng hợp trong ba cuốn sách nêu trên, ta cóthể kể đến bài viết của các nhà nghiên cứu khác như Đoàn Đức Phương vớiChiếc thuyền ngoài xa và thông điệp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu. Tácgiả đã nêu rõ tài năng của nhà văn trong phản ánh cách nhìn đa dạng, nhiềuchiều về cuộc sống và con người, phát hiện bản chất thật sau lớp vỏ đẹp đẽbên ngoài. Gần đây là Lê Huy Bắc với bài viết Đa văn bản trong Chiếcthuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Tác giả đã khám phá và đi sâu phântích bốn tầng văn bản trong truyện ngắn, bao gồm văn bản về nghệ thuật, vănbản về nghệ sĩ Phùng, văn bản về nữ quyền và văn bản về nhân cạnh đó, ta không thể không nhắc đến hai cuốn chuyên luận vềNguyễn Minh Châu và sáng tác của ông. Tôn Phương Lan với Phong cáchnghệ thuật Nguyễn Minh Châu trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng nghệ thuậtcũng như quan niệm về hiện thực và con người của nhà văn, tác giả đi đếnphác họa những nét cơ bản về phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châuthông qua sự tìm hiểu các bình diện về hệ thống nhân vật, tình huống, điểmnhìn trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ. Nguyễn Minh Châu và công cuộc đổimới văn học Việt Nam sau 1975 của Nguyễnăn Long và Trịnh Thu Tuyếttác giả đã khẳng định vị trí và tài năng của nhà văn trong đổi mới ý thức nghệthuật, đổi mới thế giới nhân vật, đổi mới kết cấu và nghệ thuật trần thuật khiđặt vấn đề nghiên cứu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong sựvận động của văn xuôi đương đại. Tuy chưa phải là hai công trình nghiên cứuchuyên biệt về truyện ngắn, nhưng các tác giả cũng đã dành phần lớn dunglượng trong phân tích tác phẩm truyện ngắn để góp phần minh họa cho phần lýthuyết thêm thuyết tác truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu còn được đề cập khánhiều trong các công trình luận án, luận văn, khóa luận cũng như trong công9tác giảng dạy tại các trường phổ thông và chuyên nghiệp trên cả nước. Có thểkể đến các luận án như Mạch lạc và hệ thống sự kiện trong một số truyệnngắn Nguyễn Minh Châu Trần Thị Thu Hiền - ĐHSP Hà Nội, Nghệ thuật tựsự trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu Lê Thị Hoa - ĐHSPHà Nội, Hàm ngôn trong một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu Lươngăn Hà - ĐHSP Hà Nội,… Những luận văn như Những đóng góp của NguyễnMinh Châu trong quá trình đổi mới của văn học Việt Nam hiện đại Trần ThịThái - ĐHKHXH&N Hà Nội, Lời văn nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn MinhChâu Nguyễn Thịân - ĐHSP Hà Nội 2, Thế giới nghệ thuật truyện ngắnNguyễn Minh Châu Nguyễn Thị Phương Thảo - ĐHKHXH&NHà Nội,Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu Phạm Thị Hồng ĐHSP Hà Nội, Phân tích phần hội thoại trong truyện ngắn của Nguyễn MinhChâu Ngô Thị Thu Phương - ĐHSP Hà Nội, Cốt truyện trong truyện ngắnNguyễn Minh Châu sau 1975 Kiều Thị Loan - ĐHKHXH&N Hà Nội,…Riêng về vấn đề kết cấu trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đã có mộtsố bài viết và công trình nghiên cứu đề cập Trọng Hoàn với bài Truyện ngắn Bức tranh - sự đối diện vàthức tỉnh lương tâm, sự khám phá khuôn mặt bên trong của con người đã chorằng Nguyễn Minh Châu đã sử dụng “kết cấu trùng điệp có tính liên khúc”[25, để khám phá ra mặt khuất lấp ẩn sâu trong tâm hồn nhân cơ sở đề cập đến vấn đề đổi mới kết cấu trên phương diện tổ chứccốt truyện, Trịnh Thu Tuyết đã khẳng định “Khảo sát các sáng tác củaNguyễn Minh Châu ở thập kỉ 80 có thể thấy khung cốt truyện của ông đượcnới lỏng đến mức nhiều lúc dường như không còn truyện, chỉ là những mảnhđời vụn vặt, những trạng thái tâm lí như là vu vơ…, những xung đột chỉ phácra mà không giải quyết” [35, Nhận định trên cũng đã bao hàm mảngtruyện ngắn trong đó. Tác giả đưa ra dẫn chứng qua việc phân tích một số10sáng tác tiêu biểu gắn với phân loại cốt truyện, có kèm theo tình huống. Đốivới loại cốt truyện triết lý luận đề, tác giả khẳng định “Trong kiểu cốt truyệnkhông có biến cố này, không có những đột biến và xung đột khép kín; sự việcmà tác giả đề cập trong truyện chỉ là “sự bổ sung cho các mâu thuẫn đã cós n, bất chấp có sự việc ấy hay không”. Nguyễn Minh Châu đã thông quanhững xung đột tâm lý trong truyện mà nêu ra những vấn đề đang tồn tạitrong cuộc sống hàng ngày để nhân vật và người đọc cùng luận bàn, suyngẫm” [35, Đối với loại cốt truyện sinh hoạt thế sự, tác giả khẳngđịnh “Trong các sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, có một số truyệnngắn được coi như là “không có cốt truyện”. Thật ra đó là những loại truyệnkể về những “sự việc đơn giản, bình thường” được xây dựng như những bứctranh đời sống, những cốt truyện không có mở đầu hay kết thúc, vắng bóngnhững thắt mở nút hồi hộp, chỉ là sự tái hiện những dòng đời đang tự nhiêntrôi chảy” [35, Đối với loại cốt truyện đời tư được xây dựng dựa trêntình huống bi kịch, tác giả khẳng định “Cốt truyện trong các truyện ngắn nàykhông dừng lại ở một thời điểm cắt ngang mà thường trải dài theo lịch sử củacả số phận, một cuộc đời với những xung đột tâm lý chồng chéo. Câu chuyệnmở ra trên nền của “tình huống xung đột cố hữu”, hầu như không có caotrào, thắt mở nút theo kiểu cốt truyện truyền thống” [35, cơ sở khảo sát những tài liệu hiện có trong tay, chúng tôi nhậnthấy trong những giới hạn nhất định, do tính chất về đối tượng, mục đích vàphạm vi nghiên cứu khác nhau nên sự quan tâm của các tác giả mới chỉ dừnglại ở những bài viết nhỏ, hoặc đề cập đến một vài phương diện thuộc kết chưa có công trình nào thật chi tiết nghiên cứu về nghệ thuật kết cấumột cách hệ thống, khi đi sâu vào phân tích vai trò, nhiệm vụ của kết cấu đốivới việc tổ chức các yếu tố nội dung và tổ chức nghệ thuật trần thuật. Trân trọngvà kế thừa nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận văn của chúng tôi đi sâu tìmhiểu về Đặc sắc nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau Mục đích nghiên cứuNghiên cứu Đặc sắc nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn MinhChâu sau 1975, người viết nhằm mục đích tìm hiểu những nét đặc sắc vềnghệ thuật kết cấu trong sáng tác truyện ngắn của nhà văn để thấy đượcnhững nét đặc trưng riêng, đồng thời hiểu rõ hơn phong cách truyện ngắn củaông. Qua đó tiếp tục khẳng định bút pháp sáng tạo độc đáo và giàu màu sắcthẩm mĩ trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, cũng như vị trí và đóng gópcủa ông đối với nền văn xuôi iệt Nam hiện Nhiệm vụ nghiên cứu- Tìm hiểu khái luận về kết cấu, bao gồm khái niệm kết cấu và vai tròcủa kết cấu đối với truyện ngắn; tìm hiểu khái quát truyện ngắn Nguyễn MinhChâu sau 1975 trên các phương diện quan niệm sáng tác, đặc điểm về nộidung và nghệ Tìm hiểu vai trò của kết cấu trong việc tổ chức các yếu tố nội dung,bao gồm tổ chức xây dựng nhân vật và cốt Tìm hiểu vai trò của kết cấu trong việc tổ chức nghệ thuật trần thuật,bao gồm tổ chức điểm nhìn trần thuật và tình huống Rút ra những kết luận cụ thể và khách quan về nghệ thuật kết cấutrong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu- Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu những nét đặc sắc vềnghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau Phạm vi nghiên cứu Giới hạn ở đề tài nghiên cứu, luận văn tập trungvào mảng sáng tác truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau năm 1975,gồm 23 truyện ngắn, trong đó có 18 truyện ngắn được in tổng hợp trong cuốnNguyễn Minh Châu toàn tập - Tập 3 Truyện ngắn Nxbăn học, 2001, 3truyện ngắn được đăng trên báo Chú chim, Chợ Tết, Sân cỏ Tây Ban Nha12và được in tổng hợp trong cuốn Nguyễn Minh Châu toàn tập - Tập 5 Tiểuluận phê bình và Phụ lục Nxb ăn học, 2001, 2 truyện ngắn Hạng và Giaothừa được in trong cuốn Nguyễn Minh Châu, tác phẩm văn học được giảithưởng Hồ Chí Minh Nxb ăn học, 2007.6. Phƣơng pháp nghiên cứu- Phương pháp phân tích, tổng hợp dùng trong phân tích từng truyệnngắn nhằm làm rõ vai trò, nhiệm vụ của kết cấu trong tổ chức xây dựng nhânvật, cốt truyện, điểm nhìn trần thuật và tình huống truyện làm nên những nétđặc sắc về nghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau1975, từ đó rút ra những kết luận khái quát về vai trò và ý nghĩa của nó đốivới việc biểu hiện các giá trị nội dung và tư tưởng của nhà Phương pháp hệ thống sử dụng với mục đích nhằm tạo ra một cáinhìn hệ thống và logic trong việc hệ thống hóa những yếu tố đặc sắc nhất vềnghệ thuật kết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975, giúp xác định vịtrí truyện ngắn của nhà văn trong tiến trình vận động của văn xuôiiệt Namhiện Phương pháp loại hình dùng trong việc phân loại và xác định đặcđiểm của nhân vật, cốt truyện, điểm nhìn trần thuật và tình huống truyện,được đặt trong tương quan với vai trò, nhiệm vụ của kết Phương pháp lịch sử - xã hội dùng để làm rõ những ảnh hưởng củahoàn cảnh xã hội đối với sự đổi mới ý thức nghệ thuật, cũng như cái nhìn mớivề con người và cuộc sống chi phối đến đặc điểm truyện ngắn Nguyễn MinhChâu giai đoạn sau song với việc vận dụng phối hợp các phương pháp trên, ngườiviết còn vận dụng thao tác thống kê; phương pháp so sánh, đối chiếu ở mộtchừng mực nhất định và vận dụng lý thuyết về các khoa học liên ngành Lýluận văn học, Thi pháp học, Tự sự học,…137. Đóng góp của luận văn- Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về nghệ thuậtkết cấu truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975. Kết quả nghiên cứu củaluận văn sẽ góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của Nguyễn Minh Châuđối với nền văn học iệt Nam hiện Một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu được chọn giảng trongnhà trường, nên kết quả luận văn nghiên cứu hi vọng sẽ là một tư liệu thamkhảo, giúp ích cho công tác giảng dạy của giáo Cấu trúc của luận vănNgoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dungluận văn gồm 3 chươngChương 1 Khái luận về kết cấu và truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975Chương 2 Kết cấu với tổ chức các yếu tố nội dungChương 3 Kết cấu với tổ chức nghệ thuật trần thuật14NỘI DUNGChƣơng 1KHÁI LUẬN VỀ KẾT CẤUVÀ TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU Khái luận về kết Khái niệm kết cấuKết cấu là một yếu tố thuộc phương diện hình thức của tác phẩm vănhọc và được các nhà nghiên cứu quan niệm như sauCuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, NguyễnKhắc Phi đồng chủ biên cho rằng kết cấu tiếng Pháp composition là“toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”. Để làm rõ hơn kháiniệm kết cấu, nhà nghiên cứu đã phân biệt kết cấu với bố cục và đi đến kếtluận “Thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn. Tổchức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quanbên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm cả sự liên kết bêntrong, nghệ thuật kiến trúc nội dung cụ thể của tác phẩm. Bố cục là mộtphương diện của kết cấu. Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm tổ chức hệthống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm;nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệthuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện,… sao cho toàn bộ tácphẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật” [20, cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng kết cấu là“sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật; tức là sự cấu tạotác phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hìnhthức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu - là kết quảcủa nhận thức thẩm mỹ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu15có tính nội dung độc lập; các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến vàđào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả” [1, cuốn Lí luận văn học, Đoàn Đức Phương cho rằng “Kết cấu làsự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của tác phẩm, là sự tổ chức,sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sởđời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định” [17, vậy, những quan niệm trên nhìn chung là tương đồng và có sựnhấn mạnh cơ bản, chúng ta có thể hiểu kết cấu là sự sắp xếp, tổchức các yếu tố bên trong và bên ngoài tác phẩm sao cho tác phẩm trở thànhmột chỉnh thể nghệ thuật thống nhất và sinh động, qua đó bộc lộ quá trìnhnhận thức và góp phần khẳng định tài năng cũng như phong cách nhà Kết cấu truyện ngắnTruyện ngắn là một thể tài tự sự và được giới nghiên cứu quan niệmnhư sauCuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, NguyễnKhắc Phi đồng chủ biên cho rằng truyện ngắn tiếng Anh short story là“tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hếtcác phương diện của đời sống đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáocủa nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc mộthơi không nghỉ … Truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiệntượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâmhồn của con người” [20, cuốn 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cho rằng truyệnngắn là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cậphầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật củatruyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp vớiviệc người tiếp nhận độc giả đọc nó liền một mạch không nghỉ” [1, vậy, từ các quan niệm trên, ta có thể hiểu truyện ngắn là một thểtài tự sự có dung lượng nhỏ, thể hiện tính cô đúc trong quá trình phản ánhhiện thực xã hội và con người, qua đó khẳng định cách nhìn và cách nắm bắtcuộc sống rất riêng của nhà đã khẳng định “Truyện ngắn giống như một thứ tranhkhắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các phương tiệnphải được tính toán một cách kinh tế, nét vẽ phải chính xác. Đây là một côngviệc vô cùng tinh tế. Xoay xỏa trên một mảnh đất chật hẹp, chính đó là chỗlàm cho truyện ngắn phân biệt với các thể tài khác” [40, Mỗi thểloại văn học sẽ có một phương thức tổ chức riêng. Kết cấu truyện ngắn sẽkhác so với kết cấu kịch và kết cấu trữ truyện ngắn cũng như tiểu thuyết, kết cấu đảm nhiệm chức năngrất đa dạng hệ thống hóa tính cách của các nhân vật và tạo ra mối quan hệ tácđộng qua lại giữa chúng; tổ chức, sắp xếp các sự kiện, biến cố trong tác phẩmsao cho cốt truyện được gói gọn trong một khung khổ nhất định; tổ chức thờigian, không gian nghệ thuật; tổ chức điểm nhìn trần thuật; sắp xếp các yếu tốngoài cốt truyện,… qua đó bộc lộ chủ đề của tác phẩm và tư tưởng của nhàvăn. Bên cạnh việc tổ chức và sắp xếp các thành tố trên, kết cấu còn làmnhiệm vụ vừa tạo ra mối liên hệ nội tại giữa chúng để tạo nên một chỉnh thểnghệ thuật nhất định, vừa tạo nên một chất keo kết dính chúng với hiện thựcđời sống được nhà văn phản ánh trong tác phẩm và đặt trong bối cảnh văn họccủa thời điều đáng lưu tâm ở đây là do tính chất về mặt thể loại nênnhững tư tưởng mà nhà văn muốn thể hiện có thể dễ dàng được gói gọn lạitrong một khuôn khổ rộng lớn của tiểu thuyết, nhưng lại khó có thể chứa vừatrong khuôn khổ của truyện ngắn. Chính điều này đã đặt ra yêu cầu ngườinghệ sĩ trong sáng tác truyện ngắn cần phải có một lối kết cấu khác, một cấu17trúc bố cục khác so với tiểu thuyết. Nguyễn Minh Châu đã khẳng định “Nếutiểu thuyết là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là một cái mặt cắt củadòng đời. Vì thế, mà cũng như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi ở người viếtmột công việc tổ chức, cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt” [9, ngắn là một tác phẩm nghệ thuật được nhà văn lấy chất liệu từ hiệnthực đời sống rồi đem “chưng cất” và gói gọn lại trong một dung lượng việc này đòi hỏi sự tinh tế cao, thể hiện cái tài của người nghệ sĩ. Bởitruyện ngắn nhỏ bé nhưng lại có sức chứa nội tại rất lớn, thậm chí trở thànhmột bức tranh bao quát toàn bộ đời sống. Sức chứa ấy có mối liên quan mậtthiết với việc nhà văn vận dụng những nguyên tắc kết cấu để tổ chức xâydựng tác phẩm nghệ thuật, mà nói như Bùiiệt Thắng thì “viết truyện ngắnlà “chơi” kết cấu” [56, Chính vì vậy, để đạt được sự “tiết kiệm nghệthuật” và hướng đến sự biểu đạt có hiệu quả cao thìtrong truyện ngắn, kết cấu đảm nhiệm vai trò vô cùng quan quan niệm về kết cấu và vai trò của kết cấu trong truyện ngắn làcơ sở để chúng tôi nghiên cứu Đặc sắc nghệ thuật kết cấu truyện ngắnNguyễn Minh Châu sau Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau Quan niệm sáng tác của Nguyễn Minh Châuới tư cách là một nhà văn công dân, nhà văn chiến sĩ, trong quá trìnhthể nghiệm đời sống và lao động nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu đã tạo nêncho mình một vốn sống phong phú cùng năng lực tư duy sắc sảo và tinh tếtrên con đường hình thành nên tài năng sáng tạo. Là một người nghệ sĩ khôngchỉ dựa vào cái sẵn có của một bản năng thiên bẩm, cái vốn có của một tàinăng nghệ thuật, ở ông còn luôn có sự quan sát, suy tư và trăn trở về côngviệc sáng tác của mình và đồng nghiệp. Xuất phát từ những điều đó, NguyễnMinh Châu đã hình thành trong ông một hệ thống ý thức nghệ thuật ngàycàng trở nên toàn diện và sâu sắc trong hành trình sáng tạo của nhà Về mối quan hệ giữa văn học và đời sốngốn là một nhà văn nặng nợ với đời, trong quá trình sáng tác vănchương, Nguyễn Minh Châu quan niệm “Văn học bao giờ cũng phải trả lờinhững câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối mặt với những ngườiđương thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống” [9, Để làm đượcđiều đó, nhà văn cần phải bám sát thực tế đời sống và hòa mình vào nhữngbiến chuyển chung của thời đại. Ông tâm niệm cuộc đời của người viết văn là“một cuộc đời không bao giờ được phép ngừng lăn lộn trong đời sống thực tế,không bao giờ ngừng nghiên cứu và quan sát xã hội, và trong khi chăm chúđọc cái “cuốn sách khổng lồ” đó, anh ta phải đặt hết cả tâm hồn và trí tuệcủa mình vào, phải tỏ rõ chính kiến và lập trường của mình trước mỗi sự việc,mỗi hoàn cảnh, mỗi con người” [9, Về mối quan hệ giữa văn học với hiện thực và con ngườiNguyễn Minh Châu cho rằng điều cần thiết đối với một tác phẩm vănhọc là phải đảm bảo được tính chân thật khi phản ánh đời sống. Chính vì vậy,vào năm 1971, ông đã nhìn lại những hạn chế trong sáng tác văn học giaiđoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mĩ và nhận ra rằng “Hình như cuộcchiến đấu anh hùng sôi nổi hiện nay đang được văn xuôi và thơ ca đôi khitráng lên một lớp men “trữ tình” hơi dày, cho nên ngắm nó thấy mỏng mảnh,bé bỏng và óng chuốt quá khiến người ta phải ngờ vực” [9, Ông đã tự“cởi trói thói quen sáng tác”, thoát ra khỏi những “khuôn khổ có s n”, tìmđến “một khoảng đất rộng rãi” để khám phá đời sống trong tất cả tính đa sựcủa nó. Nguyễn Minh Châu đã đi đến quan niệm ngày càng mở rộng và toànvẹn hơn về hiện thực. Đó là một hiện thực không hề tô vẽ với cả những vẻđẹp và những “khuyết tật” - một hiện thực không như những gì ta mơ viết “Các nhà văn đang cố nắm bắt không những cái thực mà cả cái hưảo của đời sống, không những nắm bắt hiện thực mà còn muốn nắm bắt cáibóng của hiện thực và cái đó mới là cái hiện thực đích thực” [9, Minh Châu quan niệm “Cuộc đời và văn học đều có chungmột tiêu điểm là con người” [9, Khi nhìn nhận lại văn học giai đoạnchiến tranh, ông nhận ra rằng nhân vật chỉ là phương tiện để xâu chuỗi cácbiến cố lịch sử nên nó thường bị mờ nhạt. Từ đó, ông nghiệm ra rằng “Phảiviết về con người. Tất nhiên con người không tách rời sự kiện chiến tranh …Rồi trước sau con người cũng đã leo lên trên các sự kiện để đòi quyền sống”[9, ới ông, thế giới bên trong tâm hồn con người chính là cái hiệnthực phong phú và bí ẩn nhất. Trong thời chiến, ông say mê đi tìm “hạt ngọcẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Trong thời bình, ông đã tiếp cậncon người trong tính hiện thực toàn vẹn và nhận thấy “Hình như họ luônluôn có một cuộc đấu tranh bản thân giữa thiện và ác, lý trí và dục vọng, cáiriêng và cái chung ở bên trong từng con người” [9, Càng ngày ôngcàng có sự ưu ái, dùng cả bút lực và tâm lực trong khám phá đời sống nội tâmcon người. Ông tâm niệm “Nói gì thì nói, rồi thì niềm hạnh phúc lớn nhất vàcũng đồng thời là cái điều khổ ải nhất trần đời của một anh cầm bút xưa nayvẫn là công việc khám phá ra tất cả những cái gì khó nắm bắt nhất, xảy ranơi cái thế giới bên trong con người” [9, Về trách nhiệm và sứ mệnh của người cầm bútLà người luôn ý thức rất rõ vai trò của nhà văn - chiến sĩ trên mặt trậnĐảng, Nguyễn Minh Châu luôn đề cao trách nhiệm của người cầm bút đối vớiđất nước và con người “Một nhà văn chân chính đầy tài năng được đông đảongười đọc công nhận không phải chỉ vì anh ta có ngòi bút tả cảnh như vẽ, tảngười sinh động và sắc sảo là đủ, mà chủ yếu vì nhà văn đó có tài nắm bắtđược cái thần sắc của những con người và vấn đề trong thời đại mình, tráitim nhà văn có thể rung động niềm hạnh phúc và đau khổ của số đông người,nhà văn có thể thấu hiểu và tha thiết với lý tưởng nhân dân đang đổ máu vàmồ hôi để đạt tới như anh hiểu và tha thiết với những điều mình hằng mong

truyện ngắn sau 1975